BỘ LUẬT
CỦA QUỐC HỘI NƯỚC CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
SỐ 19/2003/QH11 NGÀY 26 THÁNG 11 NĂM 2003 VỀ TỐ
TỤNG HÌNH SỰ
Căn
cứ vào Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được
sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số
51/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Quốc hội khóa
X, kỳ họp thứ 10;
Bộ
luật này quy định trình tự, thủ tục
tiến hành các hoạt động khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.
PHẦN THỨ
NHẤT
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
CHƯƠNG I
NHIỆM VỤ VÀ HIỆU LỰC CỦA BỘ LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Điều
1.
Nhiệm vụ của Bộ luật tố tụng hình
sự
Bộ
luật tố tụng hình sự quy định trình
tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy
tố, xét xử và thi hành án hình sự; chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ
giữa các cơ quan tiến hành tố tụng; nhiệm
vụ, quyền hạn và trách nhiệm của những
người tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa
vụ của những người tham gia tố tụng,
của các cơ quan, tổ chức và công dân; hợp tác
quốc tế trong tố tụng hình sự, nhằm
chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội
phạm, phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh,
kịp thời mọi hành vi phạm tội, không
để lọt tội phạm, không làm oan người vô
tội.
Bộ luật tố tụng hình
sự góp phần bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân,
tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã
hội chủ nghĩa, đồng thời giáo dục
mọi người ý thức tuân theo pháp luật,
đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.
Điều
2.
Hiệu lực của Bộ luật tố tụng hình
sự
Mọi
hoạt động tố tụng hình sự trên lãnh
thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt
Hoạt
động tố tụng hình sự đối với
người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
là công dân nước thành viên của điều ước
quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập thì
được tiến hành theo quy định của
điều ước quốc tế đó.
Đối
với người nước ngoài phạm tội trên lãnh
thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam thuộc đối tượng được
hưởng các đặc quyền ngoại giao hoặc quyền
ưu đãi, miễn trừ về lãnh sự theo pháp
luật Việt Nam, theo các điều ước quốc
tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập hoặc theo
tập quán quốc tế, thì vụ án được
giải quyết bằng con đường ngoại giao.
CHƯƠNG II
NHỮNG NGUYÊN TẮC CƠ BẢN
Điều
3.
Bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong
tố tụng hình sự
Mọi
hoạt động tố tụng hình sự của cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành
tố tụng và người tham gia tố tụng phải
được tiến hành theo quy định của
Bộ luật này.
Điều
4.
Tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản
của công dân
Khi
tiến hành tố tụng, Thủ trưởng, Phó Thủ
trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên,
Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện
kiểm sát, Kiểm sát viên, Chánh án, Phó Chánh án Tòa án, Thẩm
phán, Hội thẩm trong phạm vi trách nhiệm của mình
phải tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân, thường xuyên kiểm tra
tính hợp pháp và sự cần thiết của những
biện pháp đã áp dụng, kịp thời hủy bỏ
hoặc thay đổi những biện pháp đó, nếu
xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc không còn cần
thiết nữa.
Điều
5.
Bảo đảm quyền bình đẳng của mọi
công dân trước pháp luật
Tố
tụng hình sự tiến hành theo nguyên tắc mọi công
dân đều bình đẳng trước pháp luật, không
phân biệt dân tộc, nam nữ, tín ngưỡng, tôn giáo,
thành phần xã hội, địa vị xã hội. Bất
cứ người nào phạm tội đều bị
xử lý theo pháp luật.
Điều
6.
Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm
về thân thể của công dân
Không
ai bị bắt, nếu không có quyết định của
Toà án, quyết định hoặc phê chuẩn của
Viện kiểm sát, trừ trường hợp phạm
tội quả tang.
Việc
bắt và giam giữ người phải theo quy
định của Bộ luật này.
Nghiêm
cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình.
Điều
7.
Bảo hộ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân
phẩm, tài sản của công dân
Công
dân có quyền được pháp luật bảo hộ
về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm,
tài sản.
Mọi
hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự,
nhân phẩm, tài sản đều bị xử lý theo pháp
luật.
Người
bị hại, người làm chứng và người tham
gia tố tụng khác cũng như người thân thích
của họ mà bị đe dọa đến tính
mạng, sức khỏe, bị xâm phạm danh dự, nhân
phẩm, tài sản thì cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng phải áp dụng những biện pháp
cần thiết để bảo vệ theo quy định
của pháp luật.
Điều
8.
Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm
về chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín,
điện thoại, điện tín của công dân
Không
ai được xâm phạm chỗ ở, an toàn và bí
mật thư tín, điện thoại, điện tín
của công dân.
Việc
khám xét chỗ ở, khám xét, tạm giữ và thu giữ
thư tín, điện tín, khi tiến hành tố tụng
phải theo đúng quy định của Bộ luật
này.
Điều
9.
Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết
tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật
Không
ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi
chưa có bản án kết tội của Toà án đã có
hiệu lực pháp luật.
Điều
10.
Xác định sự thật của vụ án
Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án phải áp
dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác
định sự thật của vụ án một cách khách
quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những
chứng cứ xác định có tội và chứng cứ
xác định vô tội, những tình tiết tăng
nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự của bị can, bị cáo.
Trách
nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các
cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có
quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô
tội.
Điều
11. Bảo
đảm quyền bào chữa của người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo
Người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền
tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào
chữa.
Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát, Toà án có nhiệm vụ bảo đảm cho
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
thực hiện quyền bào chữa của họ theo quy
định của Bộ luật này.
Điều
12.
Trách nhiệm của cơ quan
tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng
Trong
quá trình tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành
tố tụng, người tiến hành tố tụng
phải nghiêm chỉnh thực hiện những quy
định của pháp luật và phải chịu trách
nhiệm về những hành vi, quyết định của
mình.
Người
làm trái pháp luật trong việc bắt, giam, giữ,
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành
án thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà
bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu
trách nhiệm hình sự.
Điều
13.
Trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự
Khi
phát hiện có dấu hiệu tội phạm thì Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát, Toà án trong phạm vi
nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm
khởi tố vụ án và áp dụng các biện pháp do
Bộ luật này quy định để xác định
tội phạm và xử lý người phạm tội.
Không
được khởi tố vụ án ngoài những căn
cứ và trình tự do Bộ luật này quy định.
Điều
14.
Bảo đảm sự vô tư của những
người tiến hành hoặc người tham gia tố
tụng
Thủ
trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều
tra, Điều tra viên, Viện trưởng, Phó Viện
trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Chánh án, Phó
Chánh án Toà án, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án
không được tiến hành tố tụng hoặc
người phiên dịch, người giám định không
được tham gia tố tụng, nếu có lý do xác
đáng để cho rằng họ có thể không vô tư
trong khi thực hiện nhiệm vụ của mình.
Điều
15.
Thực hiện chế độ xét xử có Hội
thẩm tham gia
Việc
xét xử của Toà án nhân dân có Hội thẩm nhân dân,
của Toà án quân sự có Hội thẩm quân nhân tham gia theo
quy định của Bộ luật này. Khi xét xử,
Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán.
Điều
16.
Thẩm phán và Hội thẩm xét
xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
Khi
xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập
và chỉ tuân theo pháp luật.
Điều
17. Toà
án xét xử tập thể
Toà
án xét xử tập thể và quyết định theo đa
số.
Điều
18. Xét
xử công khai
Việc
xét xử của Toà án được tiến hành công khai,
mọi người đều có quyền tham dự,
trừ trường hợp do Bộ luật này quy
định.
Trong
trường hợp đặc biệt cần giữ bí
mật nhà nước, thuần phong mỹ tục của
dân tộc hoặc để giữ bí mật của
đương sự theo yêu cầu chính đáng của
họ thì Toà án xét xử kín, nhưng phải tuyên án công khai.
Điều
19. Bảo
đảm quyền bình đẳng trước Toà án
Kiểm
sát viên, bị cáo, người bào chữa, người
bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn
dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan đến vụ án, người đại
diện hợp pháp của họ, người bảo
vệ quyền lợi của đương sự
đều có quyền bình đẳng trong việc
đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật,
đưa ra yêu cầu và tranh luận dân chủ
trước Toà án. Tòa án có trách nhiệm tạo điều
kiện cho họ thực hiện các quyền đó
nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án.
Điều
20.
Thực hiện chế độ hai cấp xét xử
1.
Toà án thực hiện chế độ hai cấp xét
xử.
Bản
án, quyết định sơ thẩm của Toà án có
thể bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định
của Bộ luật này.
Bản
án, quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo,
kháng nghị trong thời hạn do Bộ luật này quy
định thì có hiệu lực pháp luật. Đối
với bản án, quyết định sơ thẩm bị
kháng cáo, kháng nghị thì vụ án phải được xét
xử phúc thẩm. Bản án, quyết định phúc
thẩm có hiệu lực pháp luật.
2.
Đối với bản án, quyết định của
Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mà phát hiện có vi
phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới thì
được xem xét lại theo thủ tục giám
đốc thẩm hoặc tái thẩm.
Điều
21.
Giám đốc việc xét xử
Toà
án cấp trên giám đốc việc xét xử của Toà án
cấp dưới, Toà án nhân dân tối cao giám đốc
việc xét xử của Toà án nhân dân và Toà án quân sự các
cấp để bảo đảm việc áp dụng pháp
luật được nghiêm chỉnh và thống nhất.
Điều
22.
Bảo đảm hiệu lực của bản án và
quyết định của Toà án
1.
Bản án và quyết định của Toà án đã có
hiệu lực pháp luật phải được thi hành
và phải được các cơ quan, tổ chức và
mọi công dân tôn trọng. Cá nhân, cơ quan, tổ chức
hữu quan trong phạm vi trách nhiệm của mình phải
chấp hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định
của Toà án và phải chịu trách nhiệm trước
pháp luật về việc chấp hành đó.
2.
Trong phạm vi trách nhiệm của mình, các cơ quan nhà
nước, chính quyền xã, phường, thị trấn,
tổ chức và công dân phải phối hợp với
cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ thi hành bản
án, quyết định của Tòa án trong việc thi hành án.
Các
cơ quan nhà nước, chính quyền xã, phường,
thị trấn có trách nhiệm tạo điều kiện
và thực hiện yêu cầu của cơ quan, tổ
chức có nhiệm vụ thi hành bản án, quyết
định của Tòa án trong việc thi hành án.
Điều
23.
Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong tố tụng hình sự
1.
Viện kiểm sát thực hành quyền công tố trong
tố tụng hình sự, quyết định việc truy
tố người phạm tội ra trước Toà án.
2.
Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong tố tụng hình sự có trách nhiệm phát hiện
kịp thời vi phạm pháp luật của các cơ quan
tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng và người tham gia tố tụng, áp dụng những
biện pháp do Bộ luật này quy định để
loại trừ việc vi phạm pháp luật của
những cơ quan hoặc cá nhân này.
3.
Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng
hình sự nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm
tội đều phải được xử lý kịp
thời; việc khởi tố, điều tra, truy tố,
xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật, không để lọt tội phạm
và người phạm tội, không làm oan người vô
tội.
Điều
24. Tiếng
nói và chữ viết dùng trong tố tụng hình sự
Tiếng
nói và chữ viết dùng trong tố tụng hình sự là
tiếng Việt. Người tham gia tố tụng có
quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân
tộc mình, trong trường hợp này cần phải có
phiên dịch.
Điều
25.
Trách nhiệm của các tổ chức và công dân trong
đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm
1.
Các tổ chức, công dân có quyền và nghĩa vụ phát
hiện, tố giác hành vi phạm tội; tham gia đấu
tranh phòng ngừa và chống tội phạm, góp phần
bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền,
lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức.
2.
Cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm tạo
điều kiện để các tổ chức và công dân
tham gia tố tụng hình sự; phải trả lời
kết quả giải quyết tin báo, tố giác về
tội phạm cho tổ chức đã báo tin, người
đã tố giác tội phạm biết.
3.
Các tổ chức, công dân có trách nhiệm thực hiện
yêu cầu và tạo điều kiện để cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành
tố tụng thực hiện nhiệm vụ.
Điều
26. Sự
phối hợp giữa các cơ quan nhà nước với
các cơ quan tiến hành tố tụng
1.
Trong phạm vi trách nhiệm của mình, các cơ quan nhà
nước phải áp dụng các biện pháp phòng ngừa
tội phạm; phối hợp với Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát, Toà án trong việc
đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.
Các
cơ quan nhà nước phải thường xuyên kiểm
tra, thanh tra việc thực hiện chức năng,
nhiệm vụ được giao; phát hiện kịp
thời các hành vi vi phạm pháp luật để xử lý
và phải thông báo ngay cho Cơ quan điều tra, Viện
Kiểm sát mọi hành vi phạm tội xảy ra trong
cơ quan và trong lĩnh vực quản lý của mình; có
quyền kiến nghị và gửi các tài liệu có liên quan
cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát xem xét,
khởi tố đối với người có hành vi
phạm tội.
Thủ trưởng các cơ quan
nhà nước phải chịu trách nhiệm về việc
không thông báo hành vi phạm tội xảy ra trong cơ quan và
trong lĩnh vực quản lý của mình cho Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát.
Các
cơ quan nhà nước có trách nhiệm thực hiện yêu
cầu và tạo điều kiện để các cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành
tố tụng thực hiện nhiệm vụ.
Nghiêm
cấm mọi hành vi cản trở hoạt động
của các cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng thực hiện
nhiệm vụ.
2.
Cơ quan thanh tra có trách nhiệm phối hợp với
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án trong
việc phát hiện và xử lý tội phạm. Khi phát
hiện vụ việc có dấu hiệu tội phạm thì
phải chuyển ngay các tài liệu có liên quan và kiến
nghị Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát xem xét,
khởi tố vụ án hình sự.
3.
Trong phạm vi trách nhiệm của mình, Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát phải xem xét, giải
quyết tin báo về tội phạm, kiến nghị
khởi tố và phải trả lời kết quả
giải quyết cho cơ quan nhà nước đã báo tin
hoặc kiến nghị biết.
Điều
27.
Phát hiện và khắc phục nguyên nhân và điều
kiện phạm tội
Trong
quá trình tiến hành tố tụng hình sự, Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát và Toà án có nhiệm
vụ tìm ra những nguyên nhân và điều kiện
phạm tội, yêu cầu các cơ quan, tổ chức
hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và
ngăn ngừa.
Các
cơ quan, tổ chức hữu quan phải trả lời
về việc thực hiện yêu cầu của Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát và Toà án.
Điều
28.
Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án
hình sự
Việc
giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án
hình sự được tiến hành cùng với việc
giải quyết vụ án hình sự. Trong trường
hợp vụ án hình sự phải giải quyết vấn
đề bồi thường, bồi hoàn mà chưa có
điều kiện chứng minh và không ảnh hưởng
đến việc giải quyết vụ án hình sự thì
có thể tách ra để giải quyết theo thủ
tục tố tụng dân sự.
Điều
29.
Bảo đảm quyền được bồi
thường thiệt hại và phục hồi danh dự,
quyền lợi của người bị oan
Người
bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt
động tố tụng hình sự gây ra có quyền
được bồi thường thiệt hại và
phục hồi danh dự, quyền lợi.
Cơ
quan có thẩm quyền trong hoạt động tố
tụng hình sự đã làm oan phải bồi thường
thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền
lợi cho người bị oan; người đã gây
thiệt hại có trách nhiệm bồi hoàn cho cơ quan có
thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Điều
30.
Bảo đảm quyền
được bồi thường của người
bị thiệt hại do cơ quan hoặc người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự gây ra
Người
bị thiệt hại do cơ quan hoặc người có
thẩm quyền trong hoạt động tố tụng
hình sự gây ra có quyền được bồi
thường thiệt hại.
Cơ
quan có thẩm quyền trong hoạt động tố
tụng hình sự phải bồi thường cho
người bị thiệt hại; người đã gây
thiệt hại có trách nhiệm bồi hoàn cho cơ quan có
thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Điều
31. Bảo
đảm quyền khiếu nại, tố cáo trong tố
tụng hình sự
Công
dân, cơ quan, tổ chức có quyền khiếu nại,
công dân có quyền tố cáo những việc làm trái pháp
luật trong hoạt động tố tụng hình sự
của các cơ quan và người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng hình sự hoặc của
bất cứ cá nhân nào thuộc các cơ quan đó.
Cơ
quan có thẩm quyền phải tiếp nhận, xem xét và
giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các
khiếu nại, tố cáo; thông báo bằng văn bản
kết quả giải quyết cho người khiếu
nại, tố cáo biết và có biện pháp khắc phục.
Trình
tự, thủ tục và thẩm quyền giải quyết
khiếu nại, tố cáo do Bộ luật này quy
định.
Điều
32.
Giám sát của cơ quan, tổ chức, đại biểu
dân cử đối với hoạt động của
cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng
Cơ quan nhà nước, Uỷ ban
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ
chức thành viên của Mặt trận, đại biểu
dân cử có quyền giám sát hoạt động của các
cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng; giám sát việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo của các cơ quan tiến hành
tố tụng, người tiến hành tố tụng.
Nếu
phát hiện những hành vi trái pháp luật của cơ quan
tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng thì cơ quan nhà nước, đại biểu dân
cử có quyền yêu cầu, Uỷ ban Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên
của Mặt trận có quyền kiến nghị với
cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền xem
xét, giải quyết theo quy định của Bộ
luật này. Cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm
quyền phải xem xét, giải quyết và trả lời
kiến nghị, yêu cầu đó theo quy định của
pháp luật.
CHƯƠNG III
CƠ QUAN TIẾN HÀNH TỐ TỤNG, NGƯỜI TIẾN
HÀNH
TỐ TỤNG VÀ VIỆC THAY ĐỔI NGƯỜI
TIẾN HÀNH TỐ TỤNG
Điều
33.
Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến
hành tố tụng
1.
Các cơ quan tiến hành tố tụng gồm có:
a)
Cơ quan điều tra;
b)
Viện kiểm sát;
c)
Toà án.
2.
Những người tiến hành tố tụng gồm có:
a)
Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan
điều tra, Điều tra viên;
b)
Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện
kiểm sát, Kiểm sát viên;
c)
Chánh án, Phó Chánh án Toà án, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư
ký Tòa án.
Điều
34.
Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của
Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan
điều tra
1.
Thủ trưởng Cơ quan điều tra có những
nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
a)
Trực tiếp tổ chức và chỉ đạo các
hoạt động điều tra của Cơ quan
điều tra;
b)
Quyết định phân công Phó Thủ trưởng Cơ
quan điều tra, Điều tra viên trong việc
điều tra vụ án hình sự;
c)
Kiểm tra các hoạt động điều tra của Phó
Thủ trưởng Cơ quan điều tra và Điều
tra viên;
d)
Quyết định thay đổi hoặc huỷ bỏ
các quyết định không có căn cứ và trái pháp
luật của Phó Thủ trưởng Cơ quan
điều tra và Điều tra viên;
đ)
Quyết định thay đổi Điều tra viên;
e)
Giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc
thẩm quyền của Cơ quan điều tra.
Khi Thủ trưởng Cơ quan
điều tra vắng mặt, một Phó Thủ
trưởng được Thủ trưởng uỷ
nhiệm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
của Thủ trưởng. Phó Thủ trưởng
chịu trách nhiệm trước Thủ trưởng
về nhiệm vụ được giao.
2.
Khi thực hiện việc điều tra vụ án hình
sự, Thủ trưởng Cơ quan điều tra có
những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
a)
Quyết định khởi tố vụ án, khởi
tố bị can; quyết định không khởi tố
vụ án; quyết định nhập hoặc tách
vụ án;
b)
Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc
hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn;
c)
Quyết định truy nã bị can, khám xét, thu giữ,
tạm giữ, kê biên tài sản, xử lý vật chứng;
d)
Quyết định trưng cầu giám định,
quyết định khai quật tử thi;
đ)
Kết luận điều tra vụ án;
e)
Quyết định tạm đình chỉ điều tra,
quyết định đình chỉ điều tra,
quyết định phục hồi điều tra;
g)
Trực tiếp tiến hành các biện pháp điều tra;
cấp, thu hồi giấy chứng nhận người bào
chữa; ra các quyết định và tiến hành các
hoạt động tố tụng khác thuộc thẩm quyền
của Cơ quan điều tra.
3.
Khi được phân công điều tra vụ án hình
sự, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra có
những nhiệm vụ và quyền hạn được
quy định tại khoản 2 Điều này.
4.
Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan
điều tra phải chịu trách nhiệm trước
pháp luật về những hành vi và quyết định
của mình.
Điều
35.
Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của
Điều tra viên
1.
Điều tra viên được phân công điều tra
vụ án hình sự có những nhiệm vụ và quyền
hạn sau đây:
a)
Lập hồ sơ vụ án hình sự;
b)
Triệu tập và hỏi cung bị can; triệu tập và
lấy lời khai của người làm chứng,
người bị hại, nguyên đơn dân sự,
bị đơn dân sự, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến vụ án;
c)
Quyết định áp giải bị can, quyết
định dẫn giải người làm chứng;
d)
Thi hành lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam, khám xét,
thu giữ, tạm giữ, kê biên tài sản;
đ)
Tiến hành khám nghiệm hiện trường, khám
nghiệm tử thi, đối chất, nhận dạng,
thực nghiệm điều tra;
e)
Tiến hành các hoạt động điều tra khác
thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra
theo sự phân công của Thủ trưởng Cơ quan
điều tra.
2.
Điều tra viên phải chịu trách nhiệm
trước pháp luật và trước Thủ
trưởng Cơ quan điều tra về những hành vi
và quyết định của mình.
Điều
36.
Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của
Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện
kiểm sát
1.
Viện trưởng Viện kiểm sát có những
nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
a)
Tổ chức và chỉ đạo các hoạt động
thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong hoạt động tố tụng hình
sự;
b)
Quyết định phân công Phó Viện trưởng
Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thực hành quyền công
tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
hoạt động tố tụng đối với
vụ án hình sự;
c)
Kiểm tra các hoạt động thực hành quyền công
tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
hoạt động tố tụng hình sự của Phó
Viện trưởng Viện kiểm sát và Kiểm sát viên;
d)
Kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái
thẩm các bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật của Toà án theo quy định của
pháp luật;
đ)
Quyết định thay đổi hoặc huỷ bỏ
các quyết định không có căn cứ và trái pháp
luật của Phó Viện trưởng Viện kiểm sát
và Kiểm sát viên;
e)
Quyết định rút, đình chỉ hoặc huỷ
bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp
luật của Viện kiểm sát cấp dưới;
g)
Quyết định thay đổi Kiểm sát viên;
h)
Giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc
thẩm quyền của Viện kiểm sát.
Khi
Viện trưởng Viện kiểm sát vắng mặt,
một Phó Viện trưởng được Viện
trưởng uỷ nhiệm thực hiện nhiệm
vụ, quyền hạn của Viện trưởng. Phó
Viện trưởng chịu trách nhiệm trước
Viện trưởng về nhiệm vụ được
giao.
2.
Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong hoạt động tố tụng
đối với vụ án hình sự, Viện
trưởng Viện kiểm sát có những nhiệm vụ
và quyền hạn sau đây:
a)
Quyết định khởi tố vụ án, quyết
định không khởi tố vụ án, quyết
định khởi tố bị can; yêu cầu Cơ quan
điều tra khởi tố hoặc thay đổi
quyết định khởi tố vụ án hình sự,
khởi tố bị can theo quy định của Bộ
luật này;
b)
Yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra thay
đổi Điều tra viên;
c)
Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy
bỏ các biện pháp ngăn chặn; quyết định
gia hạn điều tra, quyết định gia hạn
tạm giam; yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị
can;
d)
Quyết định phê chuẩn, quyết định không
phê chuẩn các quyết định của Cơ quan
điều tra;
đ)
Quyết định hủy bỏ các quyết định
không có căn cứ và trái pháp luật của Cơ quan
điều tra;
e)
Quyết định chuyển vụ án;
g)
Quyết định việc truy tố, quyết
định trả hồ sơ để điều tra
bổ sung, quyết định trưng cầu giám định;
h)
Quyết định tạm đình chỉ hoặc đình
chỉ vụ án, quyết định phục hồi
điều tra, quyết định xử lý vật
chứng;
i)
Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm các bản án,
quyết định của Toà án;
k)
Cấp, thu hồi giấy chứng nhận người bào
chữa; ra các quyết định và tiến hành các
hoạt động tố tụng khác thuộc thẩm
quyền của Viện kiểm sát.
3.
Khi được phân công thực hành quyền công tố và
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt
động tố tụng đối với vụ án hình
sự, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát có
những nhiệm vụ và quyền hạn được
quy định tại khoản 2 Điều này.
4.
Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện
kiểm sát phải chịu trách nhiệm trước pháp
luật về những hành vi và quyết định
của mình.
Điều
37.
Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của
Kiểm sát viên
1.
Kiểm sát viên được phân công thực hành quyền
công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
hoạt động tố tụng đối với
vụ án hình sự có những nhiệm vụ và quyền
hạn sau đây:
a)
Kiểm sát việc khởi tố, kiểm sát các hoạt
động điều tra và việc lập hồ sơ
vụ án của Cơ quan điều tra;
b)
Đề ra yêu cầu điều tra;
c)
Triệu tập và hỏi cung bị can; triệu tập và
lấy lời khai của người làm chứng,
người bị hại, nguyên đơn dân sự,
bị đơn dân sự, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến vụ án;
d)
Kiểm sát việc bắt, tạm giữ, tạm giam;
đ)
Tham gia phiên toà; đọc cáo trạng, quyết định
của Viện kiểm sát liên quan đến việc
giải quyết vụ án; hỏi, đưa ra chứng
cứ và thực hiện việc luận tội; phát
biểu quan điểm về việc giải quyết
vụ án, tranh luận với những người tham gia
tố tụng tại phiên toà;
e)
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt
động xét xử của Tòa án, của những
người tham gia tố tụng và kiểm sát các bản
án, quyết định của Toà án;
g)
Kiểm sát việc thi hành bản án, quyết định
của Toà án;
h)
Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác
thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát theo
sự phân công của Viện trưởng Viện kiểm
sát.
2.
Kiểm sát viên phải chịu trách nhiệm trước
pháp luật và trước Viện trưởng Viện
kiểm sát về những hành vi và quyết định
của mình.
Điều
38. Nhiệm
vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Chánh án, Phó
Chánh án Tòa án
1.
Chánh án Toà án có những nhiệm vụ và quyền hạn
sau đây:
a)
Tổ chức công tác xét xử của Toà án;
b)
Quyết định phân công Phó Chánh án Tòa án, Thẩm phán,
Hội thẩm giải quyết, xét xử vụ án hình
sự; quyết định phân công Thư ký Tòa án tiến
hành tố tụng đối với vụ án hình sự;
c)
Quyết định thay đổi Thẩm phán, Hội
thẩm, Thư ký Tòa án trước khi mở phiên tòa;
d)
Kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm các
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật của Toà án theo quy định của Bộ
luật này;
đ)
Ra quyết định thi hành án hình sự;
e)
Quyết định hoãn chấp hành hình phạt tù;
g)
Quyết định tạm đình chỉ chấp hành hình
phạt tù;
h)
Quyết định xoá án tích;
i)
Giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc
thẩm quyền của Tòa án.
Khi
Chánh án Tòa án vắng mặt, một Phó Chánh án
được Chánh án uỷ nhiệm thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn của Chánh án. Phó Chánh án
phải chịu trách nhiệm trước Chánh án về
nhiệm vụ được giao.
2.
Khi tiến hành việc giải quyết vụ án hình
sự, Chánh án Tòa án có những nhiệm vụ và quyền
hạn sau đây:
a)
Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc
huỷ bỏ biện pháp tạm giam; quyết định
xử lý vật chứng;
b)
Quyết định chuyển vụ án;
c)
Cấp, thu hồi giấy chứng nhận người bào
chữa; ra các quyết định và tiến hành các
hoạt động tố tụng khác thuộc thẩm
quyền của Tòa án.
3.
Khi được phân công giải quyết, xét xử
vụ án hình sự, Phó Chánh án Toà án có các nhiệm vụ và
quyền hạn quy định tại khoản 2
Điều này.
4.
Chánh án, Phó Chánh án Toà án phải chịu trách nhiệm
trước pháp luật về những hành vi và quyết
định của mình.
Điều
39.
Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của
Thẩm phán
1.
Thẩm phán được phân công giải quyết, xét
xử vụ án hình sự có những nhiệm vụ và
quyền hạn sau đây:
a)
Nghiên cứu hồ sơ vụ án trước khi mở
phiên toà;
b)
Tham gia xét xử các vụ án hình sự ;
c)
Tiến hành các hoạt động tố tụng và
biểu quyết những vấn đề thuộc
thẩm quyền của Hội đồng xét xử;
d)
Tiến hành các hoạt động tố tụng khác
thuộc thẩm quyền của Tòa án theo sự phân công
của Chánh án Tòa án.
2.
Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa,
ngoài những nhiệm vụ, quyền hạn
được quy định tại khoản 1
Điều này còn có những nhiệm vụ và quyền
hạn sau đây:
a)
Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc
huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn theo quy
định của Bộ luật này;
b)
Quyết định trả hồ sơ để
điều tra bổ sung;
c) Quyết định đưa vụ án
ra xét xử; quyết định đình chỉ hoặc
tạm đình chỉ vụ án;
d)
Quyết định triệu tập những người
cần xét hỏi đến phiên toà;
đ)
Tiến hành các hoạt động tố tụng khác
thuộc thẩm quyền của Toà án theo sự phân công
của Chánh án Toà án.
3.
Thẩm phán giữ chức vụ Chánh tòa, Phó Chánh tòa Tòa phúc
thẩm Tòa án nhân dân tối cao có quyền cấp, thu
hồi giấy chứng nhận người bào chữa.
4.
Thẩm phán phải chịu trách nhiệm trước pháp
luật về những hành vi và quyết định
của mình.
Điều
40.
Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của
Hội thẩm
1.
Hội thẩm được phân công xét xử vụ án
hình sự có những nhiệm vụ và quyền hạn sau
đây:
a)
Nghiên cứu hồ sơ vụ án trước khi mở
phiên toà;
b)
Tham gia xét xử các vụ án hình sự theo thủ tục
sơ thẩm, phúc thẩm;
c)
Tiến hành các hoạt động tố tụng và
biểu quyết những vấn đề thuộc
thẩm quyền của Hội đồng xét xử.
2.
Hội thẩm phải chịu trách nhiệm trước
pháp luật về những hành vi và quyết định
của mình.
Điều
41. Nhiệm
vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thư ký Tòa
án
1.
Thư ký Tòa án được phân công tiến hành tố
tụng đối với vụ án hình sự có những
nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
a)
Phổ biến nội quy phiên toà;
b)
Báo cáo với Hội đồng xét xử danh sách những
người được triệu tập đến
phiên toà;
c)
Ghi biên bản phiên toà;
d)
Tiến hành các hoạt động tố tụng khác thuộc
thẩm quyền của Tòa án theo sự phân công của Chánh
án Tòa án.
2.
Thư ký Tòa án phải chịu trách nhiệm trước
pháp luật và trước Chánh án Tòa án về những hành
vi của mình.
Điều
42.
Những trường hợp phải từ chối
hoặc thay đổi người tiến hành tố
tụng
Người tiến hành tố tụng
phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc
bị thay đổi, nếu:
1.
Họ đồng thời là người bị hại,
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự;
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
đến vụ án; là người đại diện
hợp pháp, người thân thích của những
người đó hoặc của bị can, bị cáo;
2.
Họ đã tham gia với tư cách là người bào
chữa, người làm chứng, người giám
định, người phiên dịch trong vụ án đó;
3.
Có căn cứ rõ ràng khác để cho rằng họ có
thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ.
Điều
43.
Quyền đề nghị thay đổi người
tiến hành tố tụng
Những
người sau đây có quyền đề nghị thay
đổi người tiến hành tố tụng:
1.
Kiểm sát viên;
2.
Bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên
đơn dân sự, bị đơn dân sự và
người đại diện hợp pháp của họ;
3.
Người bào chữa, người bảo vệ
quyền lợi của người bị hại, nguyên
đơn dân sự, bị đơn dân sự.
Điều
44.
Thay đổi Điều tra viên
1.
Điều tra viên phải từ chối tiến hành
tố tụng hoặc bị thay đổi, nếu:
a)
Thuộc một trong những trường hợp quy
định tại Điều 42 của Bộ luật này;
b)
Đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó với
tư cách là Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm
hoặc Thư ký Tòa án.
2.
Việc thay đổi Điều tra viên do Thủ
trưởng Cơ quan điều tra quyết định.
Nếu
Điều tra viên là Thủ trưởng Cơ quan
điều tra mà thuộc một trong các trường
hợp quy định tại khoản 1 Điều này thì
việc điều tra vụ án do Cơ quan điều tra
cấp trên trực tiếp tiến hành.
Điều
45.
Thay đổi Kiểm sát viên
1.
Kiểm sát viên phải từ chối tiến hành tố
tụng hoặc bị thay đổi, nếu:
a)
Thuộc một trong những trường hợp quy
định tại Điều 42 của Bộ luật này;
b)
Đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó với
tư cách là Điều tra viên, Thẩm phán, Hội thẩm
hoặc Thư ký Tòa án.
2.
Việc thay đổi Kiểm sát viên trước khi
mở phiên toà do Viện trưởng Viện kiểm sát
cùng cấp quyết định.
Nếu
Kiểm sát viên bị thay đổi là Viện
trưởng Viện kiểm sát thì do Viện trưởng
Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp quyết
định.
Trong
trường hợp phải thay đổi Kiểm sát viên
tại phiên toà thì Hội đồng xét xử ra quyết
định hoãn phiên toà.
Việc
cử Kiểm sát viên khác do Viện trưởng Viện
kiểm sát cùng cấp hoặc Viện trưởng
Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp quyết
định.
Điều
46.
Thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm
1.
Thẩm phán, Hội thẩm phải từ chối tham gia
xét xử hoặc bị thay đổi, nếu:
a)
Thuộc một trong những trường hợp quy
định tại Điều 42 của Bộ luật này;
b)
Họ cùng trong một Hội đồng xét xử và là
người thân thích với nhau;
c)
Đã tham gia xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm
hoặc tiến hành tố tụng trong vụ án đó
với tư cách là Điều tra viên, Kiểm sát viên,
Thư ký Tòa án.
2.
Việc thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm
trước khi mở phiên toà do Chánh án Toà án quyết
định. Nếu Thẩm phán bị thay đổi là
Chánh án thì do Chánh án Toà án cấp trên trực tiếp
quyết định.
Việc
thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm tại phiên toà
do Hội đồng xét xử quyết định
trước khi bắt đầu xét hỏi bằng cách
biểu quyết tại phòng nghị án. Khi xem xét thành viên
nào thì thành viên đó được trình bày ý kiến
của mình, Hội đồng quyết định theo
đa số.
Trong
trường hợp phải thay đổi Thẩm phán,
Hội thẩm tại phiên toà, thì Hội đồng xét
xử ra quyết định hoãn phiên toà.
Việc cử thành viên mới của
Hội đồng xét xử do Chánh án Toà án quyết
định.
Điều
47.
Thay đổi Thư ký Tòa án
1.
Thư ký Tòa án phải từ chối tiến hành tố
tụng hoặc bị thay đổi, nếu:
a)
Thuộc một trong những trường hợp quy
định tại Điều 42 của Bộ luật này;
b)
Đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó với
tư cách là Kiểm sát viên, Điều tra viên, Thẩm phán
hoặc Hội thẩm.
2.
Việc thay đổi Thư ký Tòa án trước khi mở
phiên toà do Chánh án Toà án quyết định.
Việc
thay đổi Thư ký Tòa án tại phiên toà do Hội
đồng xét xử quyết định.
Trong
trường hợp phải thay đổi Thư ký Toà án
tại phiên toà, thì Hội đồng xét xử ra quyết
định hoãn phiên toà.
Việc
cử Thư ký Tòa án khác do Chánh án Toà án quyết
định.
CHƯƠNG IV
NGƯỜI THAM GIA TỐ TỤNG
Điều
48.
Người bị tạm giữ
1.
Người bị tạm giữ là người bị
bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm
tội quả tang, người bị bắt theo quyết
định truy nã hoặc người phạm tội
tự thú, đầu thú và đối với họ đã
có quyết định tạm giữ.
2.
Người bị tạm giữ có quyền:
a)
Được biết lý do mình bị tạm giữ;
b)
Được giải thích về quyền và nghĩa
vụ;
c)
Trình bày lời khai;
d)
Tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào
chữa;
đ)
Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
e)
Khiếu nại về việc tạm giữ, quyết
định, hành vi tố tụng của cơ quan,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
3.
Người bị tạm giữ có nghĩa vụ thực
hiện các quy định về tạm giữ theo quy
định của pháp luật.
Điều
49.
Bị can
1.
Bị can là người đã bị khởi tố về
hình sự.
2.
Bị can có quyền:
a)
Được biết mình bị khởi tố về
tội gì;
b)
Được giải thích về quyền và nghĩa
vụ;
c)
Trình bày lời khai;
d)
Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
đ)
Đề nghị thay đổi người tiến hành
tố tụng, người giám định, người
phiên dịch theo quy định của Bộ luật này;
e)
Tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào
chữa;
g)
Được nhận quyết định khởi
tố; quyết định áp dụng, thay đổi
hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; bản
kết luận điều tra; quyết định đình
chỉ, tạm đình chỉ điều tra; quyết
định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án;
bản cáo trạng, quyết định truy tố; các
quyết định tố tụng khác theo quy định
của Bộ luật này;
h)
Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng
của cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng.
3.
Bị can phải có mặt theo giấy triệu tập
của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát; trong
trường hợp vắng mặt không có lý do chính đáng
thì có thể bị áp giải; nếu bỏ trốn thì
bị truy nã.
Điều
50.
Bị cáo
1.
Bị cáo là người đã bị Toà án quyết
định đưa ra xét xử.
2.
Bị cáo có quyền:
a)
Được nhận quyết định đưa
vụ án ra xét xử; quyết định áp dụng, thay
đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn
chặn; quyết định đình chỉ vụ án;
bản án, quyết định của Tòa án; các quyết
định tố tụng khác theo quy định của
Bộ luật này;
b)
Tham gia phiên toà;
c)
Được giải thích về quyền và nghĩa
vụ;
d)
Đề nghị thay đổi người tiến hành
tố tụng, người giám định, người
phiên dịch theo quy định của Bộ luật này;
đ)
Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
e)
Tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào
chữa;
g)
Trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên tòa;
h)
Nói lời sau cùng trước khi nghị án;
i)
Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án;
k)
Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của
cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành
tố tụng.
3.
Bị cáo phải có mặt theo giấy triệu tập
của Toà án; trong trường hợp vắng mặt không
có lý do chính đáng thì có thể bị áp giải; nếu
bỏ trốn thì bị truy nã.
Điều
51.
Người bị hại
1.
Người bị hại là người bị thiệt
hại về thể chất, tinh thần, tài sản do
tội phạm gây ra.
2.
Người bị hại hoặc người đại
diện hợp pháp của họ có quyền:
a)
Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
b)
Được thông báo về kết quả điều
tra;
c)
Đề nghị thay đổi người tiến hành
tố tụng, người giám định, người
phiên dịch theo quy định của Bộ luật này;
d)
Đề nghị mức bồi thường và các
biện pháp bảo đảm bồi thường;
đ)
Tham gia phiên toà; trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên
toà để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình;
e)
Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng
của cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng; kháng cáo bản án, quyết định
của Toà án về phần bồi thường cũng
như về hình phạt đối với bị cáo.
3.
Trong trường hợp vụ án được khởi
tố theo yêu cầu của người bị hại quy
định tại Điều 105 của Bộ luật này
thì người bị hại hoặc người
đại diện hợp pháp của họ trình bày lời
buộc tội tại phiên toà.
4.
Người bị hại phải có mặt theo giấy
triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát, Toà án; nếu từ chối khai báo mà không có lý
do chính đáng thì có thể phải chịu trách nhiệm
hình sự theo Điều 308 của Bộ luật hình
sự.
5.
Trong trường hợp người bị hại
chết thì người đại diện hợp pháp
của họ có những quyền quy định tại
Điều này.
Điều
52.
Nguyên đơn dân sự
1.
Nguyên đơn dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức
bị thiệt hại do tội phạm gây ra và có
đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại.
2.
Nguyên đơn dân sự hoặc người đại
diện hợp pháp của họ có quyền:
a)
Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
b)
Được thông báo về kết quả điều
tra;
c)
Đề nghị thay đổi người tiến hành
tố tụng, người giám định, người
phiên dịch theo quy định của Bộ luật này;
d)
Đề nghị mức bồi thường và các
biện pháp bảo đảm bồi thường;
đ)
Tham gia phiên toà; trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên
toà để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của nguyên đơn;
e)
Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng
của cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng;
g)
Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án về
phần bồi thường thiệt hại.
3.
Nguyên đơn dân sự phải có mặt theo giấy
triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát, Tòa án và trình bày trung thực những tình
tiết liên quan đến việc đòi bồi
thường thiệt hại.
Điều
53.
Bị đơn dân sự
1.
Bị đơn dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ
chức mà pháp luật quy định phải chịu trách
nhiệm bồi thường đối với thiệt
hại do hành vi phạm tội gây ra.
2.
Bị đơn dân sự hoặc người đại
diện hợp pháp của họ có quyền:
a)
Khiếu nại việc đòi bồi thường của
nguyên đơn dân sự;
b)
Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
c)
Được thông báo kết quả điều tra có liên
quan đến việc đòi bồi thường;
d)
Đề nghị thay đổi người tiến hành
tố tụng, người giám định, người
phiên dịch theo quy định của Bộ luật này;
đ)
Tham gia phiên toà; trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên
toà để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của bị đơn;
e)
Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng
của cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng;
g)
Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án về
phần bồi thường thiệt hại.
3.
Bị đơn dân sự phải có mặt theo giấy
triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát, Tòa án và trình bày trung thực những tình tiết
liên quan đến việc bồi thường thiệt
hại.
Điều
54. Người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ
án
1.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
đến vụ án hoặc người đại
diện hợp pháp của họ có quyền:
a)
Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
b)
Tham gia phiên toà; phát biểu ý kiến, tranh luận tại
phiên toà để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình;
c)
Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án về
những vấn đề trực tiếp liên quan
đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình;
d)
Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng
của cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng.
2.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
đến vụ án phải có mặt theo giấy triệu
tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát, Tòa án và trình bày trung thực những tình tiết
trực tiếp liên quan đến quyền lợi,
nghĩa vụ của mình.
Điều
55.
Người làm chứng
1.
Người nào biết được những tình
tiết liên quan đến vụ án đều có thể
được triệu tập đến làm chứng.
2.
Những người sau đây không được làm
chứng:
a)
Người bào chữa của bị can, bị cáo;
b)
Người do có nhược điểm về tâm thần
hoặc thể chất mà không có khả năng nhận
thức được những tình tiết của vụ
án hoặc không có khả năng khai báo đúng đắn.
3.
Người làm chứng có quyền:
a)
Yêu cầu cơ quan triệu tập họ bảo vệ
tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài
sản và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của mình
khi tham gia tố tụng;
b)
Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng
của cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng;
c)
Được cơ quan triệu tập thanh toán chi phí
đi lại và những chi phí khác theo quy định
của pháp luật.
4.
Người làm chứng có nghĩa vụ:
a)
Có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát, Toà án; trong trường
hợp cố ý không đến mà không có lý do chính đáng và
việc vắng mặt của họ gây trở ngại cho
việc điều tra, truy tố, xét xử thì có thể
bị dẫn giải;
b)
Khai trung thực tất cả những tình tiết mà mình
biết về vụ án.
Người
làm chứng từ chối hoặc trốn tránh việc khai
báo mà không có lý do chính đáng, thì phải chịu trách
nhiệm hình sự theo Điều 308 của Bộ
luật hình sự; khai báo gian dối thì phải chịu
trách nhiệm hình sự theo Điều 307 của Bộ
luật hình sự.
Điều
56.
Người bào chữa
1.
Người bào chữa có thể là:
a)
Luật sư;
b)
Người đại diện hợp pháp của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo;
c)
Bào chữa viên nhân dân.
2.
Những người sau đây không được bào
chữa:
a)
Người đã tiến hành tố tụng trong vụ án
đó; người thân thích của người đã
hoặc đang tiến hành tố tụng trong vụ án
đó;
b)
Người tham gia trong vụ án đó với tư cách là
người làm chứng, người giám định
hoặc người phiên dịch.
3.
Một người bào chữa có thể bào chữa cho
nhiều người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo trong cùng một vụ án, nếu quyền và
lợi ích của họ không đối lập nhau.
Nhiều người bào chữa có thể bào chữa cho
một người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo.
4.
Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận
được đề nghị của người bào
chữa kèm theo giấy tờ liên quan đến việc bào
chữa, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án
phải xem xét, cấp giấy chứng nhận
người bào chữa để họ thực hiện
việc bào chữa. Nếu từ chối cấp giấy
chứng nhận thì phải nêu rõ lý do.
Đối
với trường hợp tạm giữ người thì
trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi nhận
được đề nghị của người bào
chữa kèm theo giấy tờ liên quan đến việc bào
chữa, Cơ quan điều tra phải xem xét, cấp
giấy chứng nhận người bào chữa để
họ thực hiện việc bào chữa. Nếu từ
chối cấp giấy chứng nhận thì phải nêu rõ lý
do.
Điều
57.
Lựa chọn và thay đổi người bào chữa
1.
Người bào chữa do người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo hoặc người
đại diện hợp pháp của họ lựa
chọn.
2.
Trong những trường hợp sau đây, nếu bị
can, bị cáo hoặc người đại diện
hợp pháp của họ không mời người bào
chữa thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát
hoặc Toà án phải yêu cầu Đoàn luật sư phân
công Văn phòng luật sư cử người bào chữa
cho họ hoặc đề nghị Uỷ ban Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên
của Mặt trận cử người bào chữa cho
thành viên của tổ chức mình:
a)
Bị can, bị cáo về tội theo khung hình phạt có
mức cao nhất là tử hình được quy
định tại Bộ luật hình sự;
b)
Bị can, bị cáo là người chưa thành niên,
người có nhược điểm về tâm thần
hoặc thể chất.
Trong
các trường hợp quy định tại điểm a
và điểm b khoản 2 Điều này, bị can, bị
cáo và người đại diện hợp pháp của
họ vẫn có quyền yêu cầu thay đổi hoặc
từ chối người bào chữa.
3.
Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các
tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền
cử bào chữa viên nhân dân để bào chữa cho
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là
thành viên của tổ chức mình.
Điều
58.
Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa
1.
Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi
khởi tố bị can. Trong trường hợp bắt
người theo quy định tại Điều 81 và
Điều 82 của Bộ luật này thì người bào
chữa tham gia tố tụng từ khi có quyết
định tạm giữ. Trong trường hợp
cần giữ bí mật điều tra đối với
tội xâm phạm an ninh quốc gia, thì Viện
trưởng Viện kiểm sát quyết định
để người bào chữa tham gia tố tụng
từ khi kết thúc điều tra.
2.
Người bào chữa có quyền:
a)
Có mặt khi lấy lời khai của người bị
tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu
Điều tra viên đồng ý thì được hỏi
người bị tạm giữ, bị can và có mặt
trong những hoạt động điều tra khác; xem các
biên bản về hoạt động tố tụng có sự
tham gia của mình và các quyết định tố tụng
liên quan đến người mà mình bào chữa;
b)
Đề nghị Cơ quan điều tra báo trước
về thời gian và địa điểm hỏi cung
bị can để có mặt khi hỏi cung bị can;
c)
Đề nghị thay đổi người tiến hành
tố tụng, người giám định, người
phiên dịch theo quy định của Bộ luật này;
d)
Thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên
quan đến việc bào chữa từ người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân
thích của những người này hoặc từ cơ
quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công
tác;
đ)
Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
e)
Gặp người bị tạm giữ; gặp bị
can, bị cáo đang bị tạm giam;
g)
Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong
hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa
sau khi kết thúc điều tra theo quy định của
pháp luật;
h)
Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên toà;
i)
Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng
của cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng;
k)
Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án nếu
bị cáo là người chưa thành niên hoặc
người có nhược điểm về tâm thần
hoặc thể chất quy định tại điểm b
khoản 2 Điều 57 của Bộ luật này.
3.
Người bào chữa có nghĩa vụ:
a)
Sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy
định để làm sáng tỏ những tình tiết xác
định người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo.
Tùy theo mỗi giai đoạn
tố tụng, khi thu thập được tài liệu,
đồ vật liên quan đến vụ án, thì
người bào chữa có trách nhiệm giao cho Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Việc giao
nhận các tài liệu, đồ vật đó giữa
người bào chữa và cơ quan tiến hành tố
tụng phải được lập biên bản theo quy định
tại Điều 95 của Bộ luật này;
b)
Giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của họ;
c)
Không được từ chối bào chữa cho
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà
mình đã đảm nhận bào chữa, nếu không có lý do
chính đáng;
d)
Tôn trọng sự thật và pháp luật; không
được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi
giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài
liệu sai sự thật;
đ)
Có mặt theo giấy triệu tập của Toà án;
e)
Không được tiết lộ bí mật điều tra
mà mình biết được khi thực hiện việc
bào chữa; không được sử dụng tài liệu
đã ghi chép, sao chụp trong hồ sơ vụ án vào
mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước,
quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ
chức và cá nhân.
4.
Người bào chữa làm trái pháp luật thì tùy theo tính
chất, mức độ vi phạm mà bị thu hồi
giấy chứng nhận người bào chữa, xử lý
kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy
cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại
thì phải bồi thường theo quy định của
pháp luật.
Điều
59.
Người bảo vệ quyền lợi của
đương sự
1.
Người bị hại, nguyên đơn dân sự,
bị đơn dân sự, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự có
quyền nhờ luật sư, bào chữa viên nhân dân
hoặc người khác được Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát, Toà án chấp nhận
bảo vệ quyền lợi cho mình.
2.
Người bảo vệ quyền lợi của
đương sự được tham gia tố tụng
từ khi khởi tố bị can.
3.
Người bảo vệ quyền lợi của
đương sự có quyền:
a)
Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
b)
Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong
hồ sơ vụ án liên quan đến việc bảo
vệ quyền lợi của đương sự sau khi
kết thúc điều tra theo quy định của pháp
luật;
c)
Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên toà; xem biên bản
phiên tòa;
d)
Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng
của cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng.
Người bảo vệ
quyền lợi của người bị hại, nguyên
đơn dân sự, bị đơn dân sự có quyền
đề nghị thay đổi người tiến hành
tố tụng, người giám định, người
phiên dịch theo quy định của Bộ luật này.
Đối
với đương sự là người chưa thành
niên, người có nhược điểm về tâm
thần hoặc thể chất thì người bảo
vệ quyền lợi của họ có quyền có mặt
khi cơ quan tiến hành tố tụng lấy lời khai
của người mà mình bảo vệ; kháng cáo phần bản
án, quyết định của Toà án có liên quan đến
quyền lợi, nghĩa vụ của người mà mình
bảo vệ.
4.
Người bảo vệ quyền lợi của
đương sự có nghĩa vụ:
a)
Sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy
định để góp phần làm rõ sự thật
của vụ án;
b) Giúp đương sự về mặt pháp
lý nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của họ.
Điều
60.
Người giám định
1.
Người giám định là người có kiến
thức cần thiết về lĩnh vực cần giám
định được cơ quan tiến hành tố
tụng trưng cầu theo quy định của pháp
luật.
2.
Người giám định có quyền:
a)
Tìm hiểu tài liệu của vụ án có liên quan đến
đối tượng phải giám định;
b)
Yêu cầu cơ quan trưng cầu giám định cung
cấp những tài liệu cần thiết cho việc
kết luận;
c)
Tham dự vào việc hỏi cung, lấy lời khai và
đặt câu hỏi về những vấn đề có
liên quan đến đối tượng giám định;
d)
Từ chối việc thực hiện giám định trong
trường hợp thời gian không đủ để
tiến hành giám định, các tài liệu cung cấp không
đủ hoặc không có giá trị để kết
luận, nội dung yêu cầu giám định vượt
quá phạm vi hiểu biết chuyên môn của mình;
đ)
Ghi riêng ý kiến kết luận của mình vào bản
kết luận chung nếu không thống nhất với
kết luận chung trong trường hợp giám
định do một nhóm người giám định
tiến hành.
3.
Người giám định phải có mặt theo giấy
triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát, Toà án; không được tiết lộ bí
mật điều tra mà họ biết được khi
tham gia tố tụng với tư cách là người giám
định.
Người
giám định từ chối kết luận giám
định mà không có lý do chính đáng thì phải chịu
trách nhiệm hình sự theo Điều 308 của Bộ
luật hình sự. Người giám định kết
luận gian dối thì phải chịu trách nhiệm hình
sự theo Điều 307 của Bộ luật hình sự.
4.
Người giám định phải từ chối tham gia
tố tụng hoặc bị thay đổi, nếu:
a)
Thuộc một trong những trường hợp quy
định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 42
của Bộ luật này;
b)
Đã tiến hành tố tụng với tư cách là Thủ
trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều
tra, Điều tra viên, Viện trưởng, Phó Viện
trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Chánh án, Phó
Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án
hoặc đã tham gia với tư cách là người bào
chữa, người làm chứng, người phiên dịch
trong vụ án đó.
Việc
thay đổi người giám định do cơ quan
trưng cầu quyết định.
Điều
61.
Người phiên dịch
1.
Người phiên dịch do Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát hoặc Toà án yêu cầu trong
trường hợp có người tham gia tố tụng
không sử dụng được tiếng Việt.
2.
Người phiên dịch phải có mặt theo giấy
triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát, Tòa án và phải dịch trung thực; không
được tiết lộ bí mật điều tra;
nếu dịch gian dối thì người phiên dịch
phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 307
của Bộ luật hình sự.
3.
Người phiên dịch phải từ chối tham gia
tố tụng hoặc bị thay đổi, nếu:
a)
Thuộc một trong những trường hợp quy
định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 42
của Bộ luật này;
b)
Đã tiến hành tố tụng với tư cách là Thủ
trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều
tra, Điều tra viên, Viện trưởng, Phó Viện
trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Chánh án, Phó
Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án
hoặc đã tham gia với tư cách là người bào
chữa, người làm chứng, người giám
định trong vụ án đó.
Việc
thay đổi người phiên dịch do cơ quan yêu
cầu quyết định.
4.
Những quy định của Điều này cũng
được áp dụng đối với người
biết dấu hiệu của người câm và
người điếc.
Điều
62.
Trách nhiệm giải thích và bảo đảm thực
hiện các quyền và nghĩa vụ của những
người tham gia tố tụng
Cơ
quan, người tiến hành tố tụng có trách nhiệm
giải thích và bảo đảm thực hiện các
quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố
tụng theo quy định của Bộ luật này.
Việc giải thích phải được ghi vào biên
bản.
CHƯƠNG V
CHỨNG CỨ
Điều
63.
Những vấn đề phải chứng minh trong vụ
án hình sự
Khi
điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự,
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án
phải chứng minh:
1.
Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian,
địa điểm và những tình tiết khác của
hành vi phạm tội;
2. Ai là người thực hiện hành vi
phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô
ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục
đích, động cơ phạm tội;
3.
Những tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo
và những đặc điểm về nhân thân của
bị can, bị cáo;
4.
Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi
phạm tội gây ra.
Điều
64.
Chứng cứ
1.
Chứng cứ là những gì có thật, được thu
thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này
quy định mà Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát và Toà án dùng làm căn cứ để xác định có
hay không có hành vi phạm tội, người thực
hiện hành vi phạm tội cũng như những tình
tiết khác cần thiết cho việc giải quyết
đúng đắn vụ án.
2.
Chứng cứ được xác định bằng:
a)
Vật chứng;
b)
Lời khai của người làm chứng, người
bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn
dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan đến vụ án, người bị bắt,
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo;
c)
Kết luận giám định;
d)
Biên bản về hoạt động điều tra, xét
xử và các tài liệu, đồ vật khác.
Điều
65. Thu
thập chứng cứ
1.
Để thu thập chứng cứ, Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát và Toà án có quyền triệu tập
những người biết về vụ án để
hỏi và nghe họ trình bày về những vấn
đề có liên quan đến vụ án, trưng cầu
giám định, tiến hành khám xét, khám nghiệm và các
hoạt động điều tra khác theo quy định
của Bộ luật này; yêu cầu cơ quan, tổ
chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật,
trình bày những tình tiết làm sáng tỏ vụ án.
2. Những người tham gia tố
tụng, cơ quan, tổ chức hoặc bất cứ cá
nhân nào đều có thể đưa ra tài liệu,
đồ vật và trình bày những vấn đề có
liên quan đến vụ án.
Điều
66.
Đánh giá chứng cứ
1.
Mỗi chứng cứ phải được đánh giá
để xác định tính hợp pháp, xác thực và liên
quan đến vụ án. Việc xác định các chứng
cứ thu thập được phải bảo
đảm đủ để giải quyết vụ án
hình sự.
2.
Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán và Hội
thẩm xác định và đánh giá mọi chứng cứ
với đầy đủ tinh thần trách nhiệm, sau
khi nghiên cứu một cách tổng hợp, khách quan, toàn
diện và đầy đủ tất cả tình tiết
của vụ án.
Điều
67.
Lời khai của người làm chứng
1.
Người làm chứng trình bày những gì mà họ
biết về vụ án, nhân thân của người bị
bắt, người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo, người bị hại, quan hệ giữa
họ với người bị bắt, người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người
bị hại, người làm chứng khác và trả
lời những câu hỏi đặt ra.
2.
Không được dùng làm chứng cứ những tình
tiết do người làm chứng trình bày, nếu họ
không thể nói rõ vì sao biết được tình tiết
đó.
Điều
68.
Lời khai của người bị hại
1.
Người bị hại trình bày về những tình
tiết của vụ án, quan hệ giữa họ với
người bị bắt, người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo và trả lời những câu
hỏi đặt ra.
2.
Không được dùng làm chứng cứ những tình
tiết do người bị hại trình bày, nếu họ
không thể nói rõ vì sao biết được tình tiết
đó.
Điều
69.
Lời khai của nguyên đơn dân sự, bị
đơn dân sự
1.
Nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự trình
bày về những tình tiết liên quan đến việc
bồi thường thiệt hại do tội phạm gây
ra.
2.
Không được dùng làm chứng cứ những tình
tiết do nguyên đơn dân sự, bị đơn dân
sự trình bày, nếu họ không thể nói rõ vì sao biết
được tình tiết đó.
Điều
70.
Lời khai của người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan đến vụ án
1.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
đến vụ án trình bày về những tình tiết
trực tiếp liên quan đến quyền lợi,
nghĩa vụ của họ.
2.
Không được dùng làm chứng cứ những tình
tiết do người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan đến vụ án trình bày, nếu họ không
thể nói rõ vì sao biết được tình tiết
đó.
Điều
71. Lời
khai của người bị bắt, bị tạm
giữ
Người
bị bắt, bị tạm giữ trình bày về những
tình tiết liên quan đến việc họ bị nghi
thực hiện tội phạm.
Điều
72.
Lời khai của bị can, bị cáo
1.
Bị can, bị cáo trình bày về những tình tiết
của vụ án.
2.
Lời nhận tội của bị can, bị cáo chỉ
có thể được coi là chứng cứ, nếu phù
hợp với các chứng cứ khác của vụ án.
Không
được dùng lời nhận tội của bị
can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để
kết tội.
Điều
73. Kết
luận giám định
1.
Người giám định kết luận về vấn
đề được yêu cầu giám định và
phải chịu trách nhiệm cá nhân về kết luận
đó.
Kết
luận giám định phải được thể
hiện bằng văn bản.
Nếu
việc giám định do một nhóm người giám
định tiến hành thì tất cả các thành viên
đều ký vào bản kết luận chung. Trong
trường hợp có ý kiến khác nhau thì mỗi
người ghi riêng ý kiến kết luận của mình vào
bản kết luận chung.
2.
Trong trường hợp cơ quan tiến hành tố
tụng không đồng ý với kết luận giám
định thì phải nêu rõ lý do, nếu kết luận
chưa rõ hoặc chưa đầy đủ thì quyết
định giám định bổ sung hoặc giám
định lại theo thủ tục chung.
Điều
74.
Vật chứng
Vật
chứng là vật được dùng làm công cụ,
phương tiện phạm tội; vật mang dấu
vết tội phạm, vật là đối tượng
của tội phạm cũng như tiền bạc và
vật khác có giá trị chứng minh tội phạm và
người phạm tội.
Điều
75.
Thu thập và bảo quản vật chứng
1.
Vật chứng cần được thu thập kịp
thời, đầy đủ, được mô tả
đúng thực trạng vào biên bản và đưa vào
hồ sơ vụ án.
Trong
trường hợp vật chứng không thể đưa
vào hồ sơ vụ án thì phải chụp ảnh và có
thể ghi hình để đưa vào hồ sơ vụ
án. Vật chứng phải được niêm phong, bảo
quản.
2.
Vật chứng phải được bảo quản
nguyên vẹn, không để mất mát, lẫn lộn và
hư hỏng. Việc niêm phong, bảo quản vật
chứng được thực hiện như sau:
a)
Đối với vật chứng cần được
niêm phong thì phải niêm phong ngay sau khi thu thập. Việc
niêm phong, mở niêm phong phải được tiến hành
theo quy định của pháp luật và phải lập biên
bản để đưa vào hồ sơ vụ án;
b)
Vật chứng là tiền, vàng, bạc, kim khí quý, đá quý,
đồ cổ, chất nổ, chất cháy, chất
độc, chất phóng xạ phải được giám
định ngay sau khi thu thập và phải chuyển ngay
để bảo quản tại ngân hàng hoặc các cơ
quan chuyên trách khác;
c)
Đối với vật chứng không thể đưa
về cơ quan tiến hành tố tụng để
bảo quản thì cơ quan tiến hành tố tụng giao
vật chứng đó cho chủ sở hữu,
người quản lý hợp pháp đồ vật, tài
sản hoặc người thân thích của họ hoặc
chính quyền địa phương, cơ quan, tổ
chức nơi có vật chứng bảo quản;
d)
Đối với vật chứng là hàng hoá mau hỏng
hoặc khó bảo quản nếu không thuộc
trường hợp quy định tại khoản 3
Điều 76 của Bộ luật này thì cơ quan có
thẩm quyền quy định tại khoản 1
Điều 76 của Bộ luật này trong phạm vi
quyền hạn của mình quyết định bán theo quy
định của pháp luật và chuyển tiền
đến tài khoản tạm giữ của cơ quan có
thẩm quyền tại kho bạc nhà nước
để quản lý;
đ)
Đối với vật chứng đưa về cơ
quan tiến hành tố tụng bảo quản thì cơ quan
Công an có trách nhiệm bảo quản vật chứng trong
giai đoạn điều tra, truy tố; cơ quan thi hành
án có trách nhiệm bảo quản vật chứng trong giai
đoạn xét xử và thi hành án.
3.
Người có trách nhiệm bảo quản vật
chứng mà để mất mát, hư hỏng, phá huỷ
niêm phong, tiêu dùng, chuyển nhượng, đánh tráo,
cất giấu hoặc hủy hoại vật chứng
của vụ án, thì tuỳ theo tính chất, mức
độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật
hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy
định tại Điều 310 của Bộ luật
hình sự; trong trường hợp thêm, bớt, sửa
đổi, đánh tráo, huỷ, làm hư hỏng vật
chứng của vụ án nhằm làm sai lệch hồ
sơ vụ án thì phải chịu trách nhiệm hình sự
theo quy định tại Điều 300 của Bộ
luật hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi
thường theo quy định của pháp luật.
Điều
76.
Xử lý vật chứng
1. Việc xử lý vật chứng do
Cơ quan điều tra quyết định, nếu
vụ án được đình chỉ ở giai
đoạn điều tra; do Viện kiểm sát quyết
định, nếu vụ án được đình chỉ
ở giai đoạn truy tố; do Toà án hoặc Hội
đồng xét xử quyết định ở giai
đoạn xét xử. Việc thi hành các quyết
định về xử lý vật chứng phải
được ghi vào biên bản.
2.
Vật chứng được xử lý như sau:
a)
Vật chứng là công cụ, phương tiện phạm
tội, vật cấm lưu hành thì bị tịch thu, sung
quỹ Nhà nước hoặc tiêu huỷ;
b)
Vật chứng là những vật, tiền bạc
thuộc sở hữu của Nhà nước, tổ
chức, cá nhân bị người phạm tội chiếm
đoạt hoặc dùng làm công cụ, phương tiện
phạm tội thì trả lại cho chủ sở hữu
hoặc người quản lý hợp pháp; trong
trường hợp không xác định được
chủ sở hữu hoặc người quản lý
hợp pháp thì sung quỹ Nhà nước;
c)
Vật chứng là tiền bạc hoặc tài sản do
phạm tội mà có thì bị tịch thu sung quỹ Nhà
nước;
d)
Vật chứng là hàng hóa mau hỏng hoặc khó bảo
quản thì có thể được bán theo quy định
của pháp luật;
đ)
Vật chứng không có giá trị hoặc không sử
dụng được thì bị tịch thu và tiêu huỷ.
3.
Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, cơ quan
có thẩm quyền quy định tại khoản 1
Điều này có quyền quyết định trả
lại những vật chứng quy định tại
điểm b khoản 2 Điều này cho chủ sở
hữu hoặc người quản lý hợp pháp, nếu
xét thấy không ảnh hưởng đến việc
xử lý vụ án.
4.
Trong trường hợp có tranh chấp về quyền
sở hữu đối với vật chứng thì
giải quyết theo thủ tục tố tụng dân
sự.
Điều
77.
Biên bản về hoạt động điều tra và xét
xử
Những
tình tiết được ghi trong các biên bản bắt
người, khám xét, khám nghiệm hiện trường,
khám nghiệm tử thi, đối chất, nhận
dạng, thực nghiệm điều tra, biên bản phiên
toà và biên bản về các hoạt động tố
tụng khác tiến hành theo quy định của Bộ
luật này có thể được coi là chứng cứ.
Điều
78. Các
tài liệu, đồ vật khác trong vụ án
Những
tình tiết có liên quan đến vụ án được
ghi trong các tài liệu cũng như đồ vật do
cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp có thể
được coi là chứng cứ.
Trong
trường hợp những tài liệu, đồ vật
này có những dấu hiệu quy định tại
Điều 74 của Bộ luật này thì được
coi là vật chứng.
CHƯƠNG VI
NHỮNG BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN
Điều
79.
Các biện pháp và căn cứ áp dụng biện pháp
ngăn chặn
Để
kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi
có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ
gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét
xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội,
cũng như khi cần bảo đảm thi hành án, Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án trong phạm vi
thẩm quyền tố tụng của mình hoặc
người có thẩm quyền theo quy định của
Bộ luật này có thể áp dụng một trong những
biện pháp ngăn chặn sau đây: bắt, tạm
giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú,
bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá
trị để bảo đảm.
Điều
80.
Bắt bị can, bị cáo để tạm giam
1.
Những người sau đây có quyền ra lệnh
bắt bị can, bị cáo để tạm giam:
a)
Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát quân sự các
cấp;
b)
Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp;
c)
Thẩm phán giữ chức vụ Chánh toà, Phó Chánh toà Tòa phúc
thẩm Toà án nhân dân tối cao; Hội đồng xét
xử;
d)
Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan
điều tra các cấp. Trong trường hợp này,
lệnh bắt phải được Viện kiểm sát
cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.
2.
Lệnh bắt phải ghi rõ ngày, tháng, năm, họ tên,
chức vụ của người ra lệnh; họ tên,
địa chỉ của người bị bắt và lý do
bắt. Lệnh bắt phải có chữ ký của
người ra lệnh và có đóng dấu.
Người
thi hành lệnh phải đọc lệnh, giải thích
lệnh, quyền và nghĩa vụ của người
bị bắt và phải lập biên bản về việc
bắt.
Khi
tiến hành bắt người tại nơi người
đó cư trú phải có đại diện chính quyền
xã, phường, thị trấn và người láng
giềng của người bị bắt chứng
kiến. Khi tiến hành bắt người tại nơi
người đó làm việc phải có đại diện
cơ quan, tổ chức nơi người đó làm
việc chứng kiến. Khi tiến hành bắt
người tại nơi khác phải có sự chứng
kiến của đại diện chính quyền xã,
phường, thị trấn nơi tiến hành bắt người.
3. Không được bắt
người vào ban đêm, trừ trường hợp
bắt khẩn cấp, phạm tội quả tang hoặc
bắt người đang bị truy nã quy định
tại Điều 81 và Điều 82 của Bộ
luật này.
Điều
81.
Bắt người trong trường hợp khẩn
cấp
1.
Trong những trường hợp sau đây thì
được bắt khẩn cấp:
a)
Khi có căn cứ để cho rằng người đó
đang chuẩn bị thực hiện tội phạm
rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng;
b)
Khi người bị hại hoặc người có
mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt
trông thấy và xác nhận đúng là người đã
thực hiện tội phạm mà xét thấy cần
ngăn chặn ngay việc người đó trốn;
c)
Khi thấy có dấu vết của tội phạm ở
người hoặc tại chỗ ở của người
bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy
cần ngăn chặn ngay việc người đó
trốn hoặc tiêu huỷ chứng cứ.
2. Những người sau đây có
quyền ra lệnh bắt người trong trường
hợp khẩn cấp:
a)
Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan
điều tra các cấp;
b)
Người chỉ huy đơn vị quân đội
độc lập cấp trung đoàn và tương
đương; người chỉ huy đồn biên phòng
ở hải đảo và biên giới;
c)
Người chỉ huy tàu bay, tàu biển, khi tàu bay, tàu
biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng.
3.
Nội dung lệnh bắt và việc thi hành lệnh bắt
người trong trường hợp khẩn cấp
phải theo đúng quy định tại khoản 2
Điều 80 của Bộ luật này.
4.
Trong mọi trường hợp, việc bắt khẩn
cấp phải được báo ngay cho Viện kiểm
sát cùng cấp bằng văn bản kèm theo tài liệu liên
quan đến việc bắt khẩn cấp để xét
phê chuẩn.
Viện
kiểm sát phải kiểm sát chặt chẽ căn cứ
bắt khẩn cấp quy định tại Điều
này. Trong trường hợp cần thiết, Viện
kiểm sát phải trực tiếp gặp, hỏi
người bị bắt trước khi xem xét, quyết
định phê chuẩn hoặc quyết định không
phê chuẩn.
Trong thời hạn 12 giờ,
kể từ khi nhận được đề nghị
xét phê chuẩn và tài liệu liên quan đến việc
bắt khẩn cấp, Viện kiểm sát phải ra
quyết định phê chuẩn hoặc quyết
định không phê chuẩn. Nếu Viện kiểm sát
quyết định không phê chuẩn thì người đã
ra lệnh bắt phải trả tự do ngay cho người
bị bắt.
Điều
82.
Bắt người phạm tội quả tang hoặc
đang bị truy nã
1.
Đối với người đang thực hiện
tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội
phạm thì bị phát hiện hoặc bị đuổi
bắt, cũng như người đang bị truy nã thì
bất kỳ người nào cũng có quyền bắt và giải
ngay đến cơ quan Công an, Viện kiểm sát hoặc
Uỷ ban nhân dân nơi gần nhất. Các cơ quan này
phải lập biên bản và giải ngay người
bị bắt đến Cơ quan điều tra có
thẩm quyền.
2.
Khi bắt người phạm tội quả tang hoặc
người đang bị truy nã thì người nào cũng
có quyền tước vũ khí, hung khí của người
bị bắt.
Điều
83.
Những việc cần làm ngay sau khi bắt hoặc
nhận người bị bắt
1.
Sau khi bắt hoặc nhận người bị bắt
trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm
tội quả tang, Cơ quan điều tra phải lấy
lời khai ngay và trong thời hạn 24 giờ phải ra
quyết định tạm giữ hoặc trả tự
do cho người bị bắt.
2.
Đối với người bị truy nã thì sau khi
lấy lời khai, Cơ quan điều tra nhận
người bị bắt phải thông báo ngay cho cơ quan
đã ra quyết định truy nã để đến
nhận người bị bắt.
Sau khi nhận người bị
bắt, cơ quan đã ra quyết định truy nã
phải ra ngay quyết định đình nã. Trong
trường hợp xét thấy cơ quan đã ra quyết
định truy nã không thể đến nhận ngay
người bị bắt thì sau khi lấy lời khai,
Cơ quan điều tra nhận người bị bắt
phải ra ngay quyết định tạm giữ và thông báo
ngay cho cơ quan đã ra quyết định truy nã
biết.
Sau khi nhận được thông
báo, cơ quan đã ra quyết định truy nã có thẩm
quyền bắt để tạm giam phải ra ngay
lệnh tạm giam và gửi lệnh tạm giam đã
được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn
cho Cơ quan điều tra nhận người bị
bắt. Sau khi nhận được lệnh tạm giam,
Cơ quan điều tra nhận người bị bắt
có trách nhiệm giải ngay người đó đến
trại tạm giam nơi gần nhất.
Điều
84.
Biên bản về việc bắt người
1.
Người thi hành lệnh bắt trong mọi trường
hợp đều phải lập biên bản.
Biên
bản phải ghi rõ ngày, giờ, tháng, năm, địa
điểm bắt, nơi lập biên bản; những
việc đã làm, tình hình diễn biến trong khi thi hành
lệnh bắt, những đồ vật, tài liệu
bị tạm giữ và những khiếu nại của
người bị bắt.
Biên
bản phải được đọc cho người
bị bắt và những người chứng kiến nghe.
Người bị bắt, người thi hành lệnh
bắt và người chứng kiến phải cùng ký tên vào
biên bản, nếu ai có ý kiến khác hoặc không
đồng ý với nội dung biên bản thì có quyền
ghi vào biên bản và ký tên.
Việc
tạm giữ đồ vật, tài liệu của
người bị bắt phải được tiến
hành theo quy định của Bộ luật này.
2.
Khi giao và nhận người bị bắt, hai bên giao và
nhận phải lập biên bản.
Ngoài
những điểm đã quy định tại khoản 1
Điều này, biên bản giao nhận còn phải ghi rõ
việc bàn giao các biên bản lấy lời khai, đồ
vật, tài liệu đã thu thập được, tình
trạng sức khoẻ của người bị bắt
và mọi tình tiết xảy ra lúc giao nhận.
Điều
85.
Thông báo về việc bắt
Người
ra lệnh bắt, Cơ quan điều tra nhận
người bị bắt phải thông báo ngay cho gia đình
người đã bị bắt, chính quyền xã,
phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ
chức nơi người đó cư trú hoặc làm
việc biết. Nếu thông báo cản trở việc
điều tra thì sau khi cản trở đó không còn
nữa, người ra lệnh bắt, Cơ quan
điều tra nhận người bị bắt phải
thông báo ngay.
Điều
86.
Tạm giữ
1.
Tạm giữ có thể được áp dụng
đối với những người bị bắt trong
trường hợp khẩn cấp, phạm tội
quả tang, người phạm tội tự thú,
đầu thú hoặc đối với người
bị bắt theo quyết định truy nã.
2.
Những người có quyền ra lệnh bắt khẩn
cấp quy định tại khoản 2 Điều 81
của Bộ luật này, Chỉ huy trưởng vùng
Cảnh sát biển có quyền ra quyết định
tạm giữ.
Người
thi hành quyết định tạm giữ phải giải
thích quyền và nghĩa vụ của người bị
tạm giữ quy định tại Điều 48 của
Bộ luật này.
3.
Trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi ra quyết
định tạm giữ, quyết định tạm
giữ phải được gửi cho Viện kiểm
sát cùng cấp. Nếu xét thấy việc tạm giữ
không có căn cứ hoặc không cần thiết thì
Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ
quyết định tạm giữ và người ra
quyết định tạm giữ phải trả tự
do ngay cho người bị tạm giữ.
Quyết
định tạm giữ phải ghi rõ lý do tạm
giữ, ngày hết hạn tạm giữ và phải giao cho
người bị tạm giữ một bản.
Điều
87.
Thời hạn tạm giữ
1.
Thời hạn tạm giữ không được quá ba
ngày, kể từ khi Cơ quan điều tra nhận
người bị bắt.
2.
Trong trường hợp cần thiết, người ra
quyết định tạm giữ có thể gia hạn
tạm giữ, nhưng không quá ba ngày. Trong trường
hợp đặc biệt, người ra quyết
định tạm giữ có thể gia hạn tạm
giữ lần thứ hai nhưng không quá ba ngày. Mọi
trường hợp gia hạn tạm giữ đều
phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê
chuẩn; trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi
nhận được đề nghị gia hạn và tài
liệu liên quan đến việc gia hạn tạm
giữ, Viện kiểm sát phải ra quyết định
phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn.
3.
Trong khi tạm giữ, nếu không đủ căn cứ
khởi tố bị can thì phải trả tự do ngay cho
người bị tạm giữ.
4.
Thời gian tạm giữ được trừ vào
thời hạn tạm giam. Một ngày tạm giữ
được tính bằng một ngày tạm giam.
Điều
88. Tạm
giam
1.
Tạm giam có thể được áp dụng đối
với bị can, bị cáo trong những trường
hợp sau đây:
a) Bị can, bị cáo phạm tội
đặc biệt nghiêm trọng; phạm tội rất
nghiêm trọng;
b)
Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm
tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy
định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ
cho rằng người đó có thể trốn hoặc
cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử
hoặc có thể tiếp tục phạm tội.
2.
Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có
thai hoặc đang nuôi con dưới ba mươi sáu tháng
tuổi, là người già yếu, người bị
bệnh nặng mà nơi cư trú rõ ràng thì không tạm giam
mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ
những trường hợp sau đây:
a)
Bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo
lệnh truy nã;
b)
Bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp
ngăn chặn khác nhưng tiếp tục phạm tội
hoặc cố ý gây cản trở nghiêm trọng đến
việc điều tra, truy tố, xét xử;
c)
Bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh
quốc gia và có đủ căn cứ cho rằng nếu
không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy
hại đến an ninh quốc gia.
3.
Những người có thẩm quyền ra lệnh bắt
được quy định tại Điều 80 của
Bộ luật này có quyền ra lệnh tạm giam. Lệnh
tạm giam của những người được quy
định tại điểm d khoản 1 Điều 80
của Bộ luật này phải được Viện
kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.
Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận
được lệnh tạm giam, đề nghị xét
phê chuẩn và hồ sơ, tài liệu liên quan đến
việc tạm giam, Viện kiểm sát phải ra quyết
định phê chuẩn hoặc quyết định không
phê chuẩn. Viện kiểm sát phải hoàn trả hồ
sơ cho Cơ quan điều tra ngay sau khi kết thúc
việc xét phê chuẩn.
4. Cơ quan ra lệnh tạm giam phải
kiểm tra căn cước của người bị
tạm giam và thông báo ngay cho gia đình người bị
tạm giam và cho chính quyền xã, phường, thị
trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi
người bị tạm giam cư trú hoặc làm việc
biết.
Điều
89.
Chế độ tạm giữ, tạm giam
Chế
độ tạm giữ, tạm giam khác với chế
độ đối với người đang chấp
hành hình phạt tù.
Nơi
tạm giữ, tạm giam, chế độ sinh hoạt,
nhận quà, liên hệ với gia đình và các chế
độ khác được thực hiện theo quy
định của Chính phủ.
Điều
90.
Việc chăm nom người thân thích và bảo quản
tài sản của người bị tạm giữ,
tạm giam
1.
Khi người bị tạm giữ, tạm giam có con
chưa thành niên dưới 14 tuổi hoặc có
người thân thích là người tàn tật, già yếu mà
không có người chăm sóc, thì cơ quan ra quyết
định tạm giữ, lệnh tạm giam giao những
người đó cho người thân thích chăm nom. Trong
trường hợp người bị tạm giữ,
tạm giam không có người thân thích thì cơ quan ra quyết
định tạm giữ, lệnh tạm giam giao những
người đó cho chính quyền sở tại chăm
nom.
2.
Trong trường hợp người bị tạm
giữ, tạm giam có nhà hoặc tài sản khác mà không có
người trông nom, bảo quản thì cơ quan ra
quyết tạm giữ, lệnh tạm giam phải áp
dụng những biện pháp trông nom, bảo quản thích
đáng.
3. Cơ quan ra quyết định
tạm giữ, lệnh tạm giam thông báo cho người
bị tạm giữ, tạm giam biết những biện
pháp đã được áp dụng.
Điều
91. Cấm
đi khỏi nơi cư trú
1.
Cấm đi khỏi nơi cư trú là biện pháp ngăn
chặn có thể được áp dụng đối
với bị can, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng nhằm
bảo đảm sự có mặt của họ theo
giấy triệu tập của Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát, Toà án.
2.
Những người quy định tại khoản 1
Điều 80 của Bộ luật này, Thẩm phán
được phân công chủ toạ phiên toà có quyền ra
lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú.
Bị
can, bị cáo phải làm giấy cam đoan không đi
khỏi nơi cư trú của mình, phải có mặt
đúng thời gian, địa điểm ghi trong giấy
triệu tập.
Người
ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú phải
thông báo về việc áp dụng biện pháp này cho chính
quyền xã, phường, thị trấn nơi bị can,
bị cáo cư trú và giao bị can, bị cáo cho chính
quyền xã, phường, thị trấn để
quản lý, theo dõi họ. Trong trường hợp bị
can, bị cáo có lý do chính đáng phải tạm thời
đi khỏi nơi cư trú thì phải được
sự đồng ý của chính quyền xã, phường,
thị trấn nơi người đó cư trú và
phải có giấy phép của cơ quan đã áp dụng biện
pháp ngăn chặn đó.
3.
Bị can, bị cáo vi phạm lệnh cấm đi
khỏi nơi cư trú sẽ bị áp dụng biện pháp
ngăn chặn khác.
Điều
92.
Bảo lĩnh
1.
Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn để thay
thế biện pháp tạm giam. Căn cứ vào tính
chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi phạm tội và nhân thân của bị can, bị cáo,
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có
thể quyết định cho họ được
bảo lĩnh.
2.
Cá nhân có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị
cáo là người thân thích của họ. Trong trường
hợp này thì ít nhất phải có hai người. Tổ
chức có thể nhận bảo lĩnh cho bị can,
bị cáo là thành viên của tổ chức của mình. Khi
nhận bảo lĩnh, cá nhân hoặc tổ chức
phải làm giấy cam đoan không để bị can,
bị cáo tiếp tục phạm tội và bảo
đảm sự có mặt của bị can, bị cáo theo
giấy triệu tập của Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát hoặc Toà án. Khi làm giấy cam đoan,
cá nhân hoặc tổ chức nhận bảo lĩnh
được thông báo về những tình tiết của
vụ án có liên quan đến việc nhận bảo
lĩnh.
3.
Những người quy định tại khoản 1
Điều 80 của Bộ luật này, Thẩm phán được
phân công chủ toạ phiên toà có quyền ra quyết
định về việc bảo lĩnh.
4.
Cá nhân nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo
phải là người có tư cách, phẩm chất
tốt, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật. Việc
bảo lĩnh phải có xác nhận của chính quyền
địa phương nơi người đó cư trú
hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó
làm việc. Đối với tổ chức nhận
bảo lĩnh thì việc bảo lĩnh phải có xác
nhận của người đứng đầu tổ
chức.
5.
Cá nhân hoặc tổ chức nhận bảo lĩnh vi
phạm nghĩa vụ đã cam đoan phải chịu
trách nhiệm về nghĩa vụ đã cam đoan và trong
trường hợp này bị can, bị cáo được
nhận bảo lĩnh sẽ bị áp dụng biện pháp
ngăn chặn khác.
Điều
93. Đặt
tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo
đảm
1.
Đặt tiền hoặc tài sản có giá trị
để bảo đảm là biện pháp ngăn chặn
để thay thế biện pháp tạm giam. Căn cứ
vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội
của hành vi phạm tội, nhân thân và tình trạng tài
sản của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho
họ đặt tiền hoặc tài sản có giá trị
để bảo đảm sự có mặt của họ
theo giấy triệu tập.
2.
Những người quy định tại khoản 1
Điều 80 của Bộ luật này, Thẩm phán
được phân công chủ toạ phiên toà có quyền ra
quyết định về việc đặt tiền
hoặc tài sản có giá trị để bảo
đảm. Quyết định của những
người quy định tại điểm d khoản 1
Điều 80 của Bộ luật này phải
được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn
trước khi thi hành.
3.
Cơ quan ra quyết định về việc đặt
tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo
đảm phải lập biên bản ghi rõ số
lượng tiền, tên và tình trạng tài sản đã
được đặt và giao cho bị can hoặc
bị cáo một bản.
4.
Trong trường hợp bị can, bị cáo đã
được Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát, Toà án triệu tập mà vắng mặt không có lý do chính
đáng thì số tiền hoặc tài sản đã
đặt sẽ bị sung quỹ Nhà nước và trong
trường hợp này bị can, bị cáo sẽ bị áp
dụng biện pháp ngăn chặn khác.
Trong
trường hợp bị can, bị cáo chấp hành
đầy đủ các nghĩa vụ đã cam đoan thì
cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm trả
lại cho họ số tiền hoặc tài sản đã
đặt.
5.
Trình tự, thủ tục, mức tiền hoặc giá
trị tài sản phải đặt để bảo
đảm, việc tạm giữ, hoàn trả, không hoàn
trả số tiền hoặc tài sản đã đặt
được thực hiện theo quy định của
pháp luật.
Điều
94.
Huỷ bỏ hoặc thay thế biện pháp ngăn
chặn
1.
Khi vụ án bị đình chỉ thì mọi biện pháp
ngăn chặn đã áp dụng đều phải
được huỷ bỏ.
2.
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án huỷ
bỏ biện pháp ngăn chặn khi thấy không còn
cần thiết hoặc có thể thay thế bằng
một biện pháp ngăn chặn khác.
Đối
với những biện pháp ngăn chặn do Viện
kiểm sát phê chuẩn thì việc huỷ bỏ hoặc
thay thế phải do Viện kiểm sát quyết
định.
CHƯƠNG VII
BIÊN BẢN, THỜI HẠN, ÁN PHÍ
Điều
95. Biên
bản
1.
Khi tiến hành các hoạt động tố tụng,
bắt buộc phải lập biên bản theo mẫu quy
định thống nhất.
Trong
biên bản ghi rõ địa điểm, ngày, giờ, tháng,
năm tiến hành tố tụng, thời gian bắt
đầu và thời gian kết thúc, nội dung của
hoạt động tố tụng, những người
tiến hành, tham gia hoặc có liên quan đến hoạt
động tố tụng, những khiếu nại, yêu
cầu hoặc đề nghị của họ.
2.
Biên bản phiên toà phải có chữ ký của chủ
toạ phiên toà và Thư ký Tòa án. Biên bản các hoạt
động tố tụng khác phải có chữ ký của
những người mà Bộ luật này quy định
trong từng trường hợp. Những điểm
sửa chữa trong biên bản cũng phải
được xác nhận bằng chữ ký của họ.
Điều
96.
Tính thời hạn
1.
Thời hạn mà Bộ luật này quy định
được tính theo giờ, ngày và tháng. Đêm
được tính từ 22 giờ đến 6 giờ sáng
ngày hôm sau.
Khi
tính thời hạn theo ngày thì thời hạn sẽ hết
vào lúc 24 giờ ngày cuối cùng của thời hạn. Khi
tính thời hạn theo tháng thì thời hạn hết vào
ngày trùng của tháng sau; nếu tháng đó không có ngày trùng,
thì thời hạn hết vào ngày cuối cùng của tháng
đó; nếu thời hạn hết vào ngày nghỉ thì ngày
làm việc đầu tiên tiếp theo được tính là
ngày cuối cùng của thời hạn.
Khi
tính thời hạn tạm giữ, tạm giam thì thời
hạn hết vào ngày kết thúc thời hạn
được ghi trong lệnh. Nếu thời hạn
được tính bằng tháng thì một tháng
được tính là ba mươi ngày.
2.
Trong trường hợp có đơn hoặc giấy
tờ được gửi qua bưu điện thì
thời hạn được tính theo dấu bưu
điện nơi gửi. Nếu có đơn hoặc
giấy tờ được gửi qua Ban giám thị
trại tạm giam, trại giam thì thời hạn
được tính từ ngày Ban giám thị trại tạm
giam, trại giam nhận đơn hoặc giấy tờ
đó.
Điều
97.
Phục hồi thời hạn
Nếu
quá hạn mà có lý do chính đáng thì cơ quan tiến hành
tố tụng phải phục hồi lại thời
hạn.
Điều
98.
Án phí
án
phí là tất cả chi phí để tiến hành tố
tụng hình sự bao gồm tiền thù lao cho người
làm chứng, người bị hại, người giám
định, người phiên dịch, người bào
chữa trong trường hợp cơ quan tiến hành
tố tụng chỉ định và các khoản chi phí khác
theo quy định của pháp luật; án phí dân sự trong
vụ án hình sự.
Điều
99.
Trách nhiệm chịu án phí
1. án phí do người bị kết án
hoặc Nhà nước chịu theo quy định của
pháp luật.
2.
Người bị kết án phải trả án phí theo
quyết định của Toà án.
3.
Trong trường hợp vụ án được khởi
tố theo yêu cầu của người bị hại,
nếu Toà án tuyên bố bị cáo không có tội hoặc
vụ án bị đình chỉ theo quy định tại
khoản 2 Điều 105 của Bộ luật này thì
người bị hại phải trả án phí.
PHẦN THỨ HAI
KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
VÀ QUYẾT ĐỊNH VIỆC TRUY TỐ
CHƯƠNG VIII
KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ
Điều
100.
Căn cứ khởi tố vụ án hình sự
Chỉ
được khởi tố vụ án hình sự khi đã
xác định có dấu hiệu tội phạm. Việc
xác định dấu hiệu tội phạm dựa trên
những cơ sở sau đây:
1.
Tố giác của công dân;
2.
Tin báo của cơ quan, tổ chức;
3.
Tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng;
4.
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, Bộ
đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực
lượng Cảnh sát biển và các cơ quan khác của
Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra trực tiếp phát hiện
dấu hiệu của tội phạm;
5.
Người phạm tội tự thú.
Điều
101.
Tố giác và tin báo về tội phạm
Công
dân có thể tố giác tội phạm với Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án hoặc với các
cơ quan khác, tổ chức. Nếu tố giác bằng
miệng thì cơ quan, tổ chức tiếp nhận
phải lập biên bản và có chữ ký của người
tố giác.
Cơ
quan, tổ chức khi phát hiện hoặc nhận
được tố giác của công dân phải báo tin ngay
về tội phạm cho Cơ quan điều tra bằng
văn bản.
Điều
102.
Người phạm tội tự thú
Khi
người phạm tội đến tự thú, cơ
quan, tổ chức tiếp nhận phải lập biên
bản ghi rõ họ tên, tuổi, nghề nghiệp, chỗ
ở và những lời khai của người tự thú.
Cơ quan, tổ chức tiếp nhận người
phạm tội tự thú có trách nhiệm báo ngay cho Cơ
quan điều tra hoặc Viện kiểm sát.
Điều
103. Nhiệm
vụ giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm và kiến nghị khởi tố
1.
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát có trách
nhiệm tiếp nhận đầy đủ mọi
tố giác, tin báo về tội phạm do cá nhân, cơ quan,
tổ chức và kiến nghị khởi tố do cơ
quan nhà nước chuyển đến. Viện kiểm sát
có trách nhiệm chuyển ngay các tố giác, tin báo về
tội phạm và kiến nghị khởi tố kèm theo các
tài liệu có liên quan đã tiếp nhận cho Cơ quan
điều tra có thẩm quyền.
2.
Trong thời hạn hai mươi ngày, kể từ ngày
nhận được tố giác, tin báo về tội
phạm, kiến nghị khởi tố, Cơ quan
điều tra trong phạm vi trách nhiệm của mình
phải kiểm tra, xác minh nguồn tin và quyết
định việc khởi tố hoặc quyết
định không khởi tố vụ án hình sự.
Trong
trường hợp sự việc bị tố giác, tin báo
về tội phạm hoặc kiến nghị khởi
tố có nhiều tình tiết phức tạp hoặc
phải kiểm tra, xác minh tại nhiều địa
điểm thì thời hạn để giải quyết
tố giác và tin báo có thể dài hơn, nhưng không quá hai
tháng.
3.
Kết quả giải quyết tố giác, tin báo về
tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố
của cơ quan nhà nước phải được
gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp và thông báo cho cơ
quan, tổ chức đã báo tin hoặc người đã
tố giác tội phạm biết.
Cơ
quan điều tra phải áp dụng các biện pháp cần
thiết để bảo vệ người đã tố
giác tội phạm.
4.
Viện kiểm sát có trách nhiệm kiểm sát việc
giải quyết của Cơ quan điều tra
đối với tố giác, tin báo về tội phạm
và kiến nghị khởi tố.
Điều
104.
Quyết định khởi tố vụ án hình sự
1.
Khi xác định có dấu hiệu tội phạm thì
Cơ quan điều tra phải ra quyết định
khởi tố vụ án hình sự. Thủ trưởng
đơn vị Bộ đội biên phòng, cơ quan
Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát
biển và Thủ trưởng các cơ quan khác của Công
an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm
vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra ra quyết định khởi tố vụ
án trong những trường hợp quy định tại
Điều 111 của Bộ luật này.
Viện
kiểm sát ra quyết định khởi tố vụ án
hình sự trong trường hợp Viện kiểm sát
huỷ bỏ quyết định không khởi tố
vụ án của các cơ quan quy định tại
khoản này và trong trường hợp Hội đồng
xét xử yêu cầu khởi tố vụ án.
Hội
đồng xét xử ra quyết định khởi tố
hoặc yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ
án hình sự nếu qua việc xét xử tại phiên tòa mà
phát hiện được tội phạm hoặc
người phạm tội mới cần phải
điều tra.
2. Quyết định khởi tố
vụ án hình sự phải ghi rõ thời gian, căn cứ
khởi tố, điều khoản của Bộ luật
hình sự được áp dụng và họ tên, chức
vụ người ra quyết định.
3.
Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết
định khởi tố vụ án hình sự, Viện
kiểm sát phải gửi quyết định đó
đến Cơ quan điều tra để tiến hành
điều tra; quyết định khởi tố kèm theo
tài liệu liên quan đến việc khởi tố vụ
án hình sự của Cơ quan điều tra, Bộ
đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực
lượng Cảnh sát biển, các cơ quan khác của Công
an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm
vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra phải được gửi tới
Viện kiểm sát để kiểm sát việc khởi
tố; quyết định khởi tố của Hội
đồng xét xử phải được gửi
tới Viện kiểm sát để xem xét, quyết
định việc điều tra; yêu cầu khởi
tố của Hội đồng xét xử được
gửi cho Viện kiểm sát để xem xét, quyết
định việc khởi tố.
Điều
105.
Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của
người bị hại
1. Những vụ án về các tội
phạm được quy định tại khoản 1 các
điều 104, 105, 106, 108, 109, 111, 113, 121, 122, 131 và 171
của Bộ luật hình sự chỉ được
khởi tố khi có yêu cầu của người bị
hại hoặc của người đại diện
hợp pháp của người bị hại là
người chưa thành niên, người có nhược
điểm về tâm thần hoặc thể chất.
2. Trong trường hợp
người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu
trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm thì vụ án
phải được đình chỉ.
Trong
trường hợp có căn cứ để xác
định người đã yêu cầu khởi tố rút
yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của
họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy
người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu,
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn
có thể tiếp tục tiến hành tố tụng
đối với vụ án.
Người
bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có
quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút
yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức.
Điều
106.
Thay đổi hoặc bổ sung quyết định
khởi tố vụ án hình sự
1.
Khi có căn cứ xác định tội phạm đã
khởi tố không đúng với hành vi phạm tội
xảy ra hoặc còn có tội phạm khác thì Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát ra quyết định
thay đổi hoặc bổ sung quyết định
khởi tố vụ án hình sự.
2.
Trong trường hợp Cơ quan điều tra quyết
định thay đổi hoặc bổ sung quyết
định khởi tố vụ án hình sự thì trong
thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết
định thay đổi hoặc bổ sung quyết
định khởi tố vụ án, Cơ quan điều
tra phải gửi cho Viện kiểm sát để kiểm
sát việc khởi tố.
Trong
trường hợp Viện kiểm sát quyết
định thay đổi hoặc bổ sung quyết
định khởi tố vụ án hình sự thì trong
thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết
định thay đổi hoặc bổ sung quyết
định khởi tố vụ án, Viện kiểm sát
phải gửi cho Cơ quan điều tra để
tiến hành điều tra.
Điều
107.
Những căn cứ không được khởi tố
vụ án hình sự
Không
được khởi tố vụ án hình sự khi có
một trong những căn cứ sau đây:
1.
Không có sự việc phạm tội;
2.
Hành vi không cấu thành tội phạm;
3.
Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội
chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự;
4.
Người mà hành vi phạm tội của họ đã có
bản án hoặc quyết định đình chỉ
vụ án có hiệu lực pháp luật;
5.
Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình
sự;
6.
Tội phạm đã được đại xá;
7.
Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội
đã chết, trừ trường hợp cần tái
thẩm đối với người khác.
Điều
108.
Quyết định không khởi tố vụ án hình sự
1.
Khi có một trong những căn cứ quy định
tại Điều 107 của Bộ luật này thì
người có quyền khởi tố vụ án ra quyết
định không khởi tố vụ án hình sự; nếu
đã khởi tố thì phải ra quyết định
hủy bỏ quyết định khởi tố và thông báo
cho cơ quan, tổ chức, cá nhân đã tố giác hoặc
báo tin về tội phạm biết rõ lý do; nếu xét
cần xử lý bằng biện pháp khác thì chuyển hồ
sơ cho cơ quan, tổ chức hữu quan giải
quyết.
Quyết
định không khởi tố vụ án hình sự,
quyết định hủy bỏ quyết định
khởi tố vụ án hình sự và các tài liệu liên quan
phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng
cấp trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra
quyết định.
2.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân đã tố giác hoặc báo
tin về tội phạm có quyền khiếu nại
quyết định không khởi tố vụ án. Thẩm
quyền và thủ tục giải quyết khiếu nại
theo quy định tại Chương XXXV của Bộ
luật này.
Điều
109.
Quyền hạn và trách nhiệm của Viện kiểm sát
trong việc khởi tố vụ án hình sự
1.
Viện kiểm sát thực hành quyền công tố, kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong việc khởi tố
vụ án hình sự, bảo đảm mọi tội
phạm được phát hiện đều phải
được khởi tố, việc khởi tố
vụ án có căn cứ và hợp pháp.
2.
Trong trường hợp quyết định khởi
tố vụ án hình sự của Cơ quan điều tra,
Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực
lượng Cảnh sát biển, các cơ quan khác của
Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra không có căn cứ thì Viện
kiểm sát ra quyết định huỷ bỏ quyết
định khởi tố đó; nếu quyết
định không khởi tố vụ án hình sự của
các cơ quan đó không có căn cứ, thì Viện kiểm
sát hủy bỏ quyết định đó và ra quyết
định khởi tố vụ án.
3.
Trong trường hợp quyết định khởi
tố vụ án hình sự của Hội đồng xét
xử không có căn cứ thì Viện kiểm sát kháng
nghị lên Tòa án cấp trên.
CHƯƠNG IX
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VỀ ĐIỀU TRA
Điều 110. Thẩm
quyền điều tra
1.
Cơ quan điều tra trong Công an nhân dân điều tra
tất cả các tội phạm, trừ những tội
phạm thuộc thẩm quyền điều tra của
Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân và Cơ
quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối
cao.
2.
Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân
điều tra các tội phạm thuộc thẩm quyền
xét xử của Toà án quân sự.
3.
Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân
tối cao điều tra một số loại tội xâm
phạm hoạt động tư pháp mà người
phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp.
4.
Cơ quan điều tra có thẩm quyền điều tra
những vụ án hình sự mà tội phạm xảy ra trên
địa phận của mình. Trong trường hợp
không xác định được địa điểm
xảy ra tội phạm thì việc điều tra
thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra
nơi phát hiện tội phạm, nơi bị can cư
trú hoặc bị bắt.
Cơ
quan điều tra cấp huyện, Cơ quan điều
tra quân sự khu vực điều tra những vụ án
hình sự về những tội phạm thuộc thẩm
quyền xét xử của Toà án nhân dân cấp huyện, Toà
án quân sự khu vực; Cơ quan điều tra cấp
tỉnh, Cơ quan điều tra quân sự cấp quân khu
điều tra những vụ án hình sự về những
tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của
Toà án nhân dân cấp tỉnh, Toà án quân sự cấp quân khu
hoặc những vụ án thuộc thẩm quyền
điều tra của Cơ quan điều tra cấp
dưới nhưng xét thấy cần trực tiếp
điều tra. Cơ quan điều tra cấp trung
ương điều tra những vụ án hình sự
về những tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng, phức tạp thuộc thẩm quyền
điều tra của Cơ quan điều tra cấp
tỉnh, Cơ quan điều tra quân sự cấp quân khu
nhưng xét thấy cần trực tiếp điều tra.
5.
Tổ chức bộ máy, thẩm quyền cụ thể
của các Cơ quan điều tra do ủy ban
thường vụ Quốc hội quy định.
Điều
111.
Quyền hạn điều tra của Bộ đội biên
phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh
sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân
đội nhân dân được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều
tra
1.
Khi phát hiện những hành vi phạm tội đến
mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự trong
lĩnh vực quản lý của mình thì Bộ đội
biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng
Cảnh sát biển có thẩm quyền:
a)
Đối với tội phạm ít nghiêm trọng trong
trường hợp phạm tội quả tang, chứng
cứ và lai lịch người phạm tội rõ ràng, thì
ra quyết định khởi tố vụ án, khởi
tố bị can, tiến hành điều tra và chuyển
hồ sơ cho Viện kiểm sát có thẩm quyền trong
thời hạn hai mươi ngày, kể từ ngày ra
quyết định khởi tố vụ án;
b)
Đối với tội phạm nghiêm trọng, rất
nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng hoặc
tội phạm ít nghiêm trọng nhưng phức tạp thì
ra quyết định khởi tố vụ án, tiến hành
những hoạt động điều tra ban đầu
và chuyển hồ sơ cho Cơ quan điều tra có
thẩm quyền trong thời hạn bảy ngày, kể
từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án.
2.
Trong Công an nhân dân, Quân đội nhân dân, ngoài các Cơ quan
điều tra quy định tại Điều 110 của
Bộ luật này, các cơ quan khác được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra trong khi làm nhiệm vụ của mình,
nếu phát hiện sự việc có dấu hiệu tội
phạm, thì có quyền khởi tố vụ án, tiến hành
những hoạt động điều tra ban đầu
và chuyển hồ sơ cho Cơ quan điều tra có
thẩm quyền trong thời hạn bảy ngày, kể
từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án.
3.
Khi tiến hành hoạt động điều tra, Bộ
đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực
lượng Cảnh sát biển và các cơ quan khác của
Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra trong phạm vi thẩm quyền
tố tụng của mình phải thực hiện đúng
nguyên tắc, trình tự, thủ tục tố tụng
đối với hoạt động điều tra theo
quy định của Bộ luật này. Viện kiểm
sát có trách nhiệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong hoạt động điều tra của các cơ quan
này.
4.
Nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể trong hoạt
động điều tra của Bộ đội biên
phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh
sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân
đội nhân dân được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều
tra do Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy
định.
Điều
112.
Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát
khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn
điều tra
Khi
thực hành quyền công tố trong giai đoạn
điều tra, Viện kiểm sát có những nhiệm
vụ và quyền hạn sau đây:
1.
Khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị
can; yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố
hoặc thay đổi quyết định khởi tố
vụ án hình sự, khởi tố bị can theo quy
định của Bộ luật này;
2.
Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ
quan điều tra tiến hành điều tra; khi xét
thấy cần thiết, trực tiếp tiến hành
một số hoạt động điều tra theo quy
định của Bộ luật này;
3.
Yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra thay
đổi Điều tra viên theo quy định của
Bộ luật này; nếu hành vi của Điều tra viên
có dấu hiệu tội phạm thì khởi tố về
hình sự;
4.
Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc
hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm
giam và các biện pháp ngăn chặn khác; quyết
định phê chuẩn, quyết định không phê
chuẩn các quyết định của Cơ quan
điều tra theo quy định của Bộ luật này.
Trong trường hợp không phê chuẩn thì trong quyết
định không phê chuẩn phải nêu rõ lý do;
5.
Huỷ bỏ các quyết định không có căn cứ
và trái pháp luật của Cơ quan điều tra; yêu
cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can;
6. Quyết định việc truy tố
bị can; quyết định đình chỉ hoặc
tạm đình chỉ vụ án.
Điều
113.
Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát
khi kiểm sát điều tra
Khi
thực hiện công tác kiểm sát điều tra, Viện
kiểm sát có những nhiệm vụ và quyền hạn sau
đây:
1.
Kiểm sát việc khởi tố, kiểm sát các hoạt
động điều tra và việc lập hồ sơ
vụ án của Cơ quan điều tra;
2.
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của người
tham gia tố tụng;
3.
Giải quyết các tranh chấp về thẩm quyền
điều tra;
4.
Yêu cầu Cơ quan điều tra khắc phục các vi
phạm pháp luật trong hoạt động điều
tra; yêu cầu Cơ quan điều tra cung cấp tài
liệu cần thiết về vi phạm pháp luật của
Điều tra viên; yêu cầu Thủ trưởng Cơ
quan điều tra xử lý nghiêm minh Điều tra viên
đã vi phạm pháp luật trong khi tiến hành điều
tra;
5.
Kiến nghị với cơ quan, tổ chức hữu
quan áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm và
vi phạm pháp luật.
Điều
114.
Trách nhiệm của Cơ quan điều tra trong việc
thực hiện các yêu cầu và quyết định
của Viện kiểm sát
Cơ
quan điều tra có trách nhiệm thực hiện các yêu
cầu và quyết định của Viện kiểm sát.
Đối với những yêu cầu và quyết
định quy định tại các điểm 4, 5 và 6
Điều 112 của Bộ luật này, nếu không
nhất trí, Cơ quan điều tra vẫn phải
chấp hành, nhưng có quyền kiến nghị với
Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp. Trong
thời hạn hai mươi ngày, kể từ ngày nhận
được kiến nghị của Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát cấp trên trực
tiếp phải xem xét, giải quyết và thông báo kết
quả giải quyết cho cơ quan đã kiến
nghị.
Điều
115.
Trách nhiệm thực hiện quyết định và yêu
cầu của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát
Những
quyết định, yêu cầu của Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát trong giai đoạn
điều tra vụ án hình sự phải được
cơ quan, tổ chức và công dân nghiêm chỉnh chấp
hành.
Điều
116.
Chuyển vụ án để điều tra theo thẩm
quyền
Trong
trường hợp vụ án không thuộc thẩm
quyền điều tra của mình, Cơ quan điều
tra phải đề nghị Viện kiểm sát cùng
cấp ra quyết định chuyển vụ án cho Cơ
quan điều tra có thẩm quyền để tiếp
tục điều tra; trong thời hạn ba ngày, kể
từ ngày nhận được đề nghị
của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát cùng
cấp có trách nhiệm ra quyết định chuyển
vụ án.
Việc
chuyển vụ án ra ngoài phạm vi tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương hoặc ngoài phạm vi quân
khu do Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện
kiểm sát quân sự cấp quân khu quyết định.
Điều
117.
Nhập hoặc tách vụ án hình sự để tiến
hành điều tra
1.
Cơ quan điều tra có thể nhập để
tiến hành điều tra trong cùng một vụ án
những trường hợp bị can phạm nhiều
tội, nhiều bị can cùng tham gia một tội
phạm hoặc cùng với bị can còn có những
người khác che giấu tội phạm hoặc không
tố giác tội phạm quy định tại
Điều 313 và Điều 314 của Bộ luật hình
sự.
2.
Cơ quan điều tra chỉ được tách vụ
án trong những trường hợp thật cần
thiết khi không thể hoàn thành sớm việc điều
tra đối với tất cả các tội phạm và
nếu việc tách đó không ảnh hưởng
đến việc xác định sự thật khách quan và
toàn diện của vụ án.
3.
Quyết định nhập hoặc tách vụ án hình
sự phải được gửi cho Viện kiểm
sát cùng cấp trong thời hạn 24 giờ, kể từ
khi ra quyết định.
Điều
118.
Ủy thác điều tra
Khi
cần thiết, Cơ quan điều tra có thể ủy
thác cho Cơ quan điều tra khác tiến hành một
số hoạt động điều tra. Quyết
định ủy thác điều tra phải ghi rõ yêu
cầu cụ thể. Cơ quan điều tra
được ủy thác có trách nhiệm thực hiện
đầy đủ những việc được
ủy thác theo thời hạn mà Cơ quan điều tra
ủy thác yêu cầu.
Điều
119.
Thời hạn điều tra
1.
Thời hạn điều tra vụ án hình sự không quá
hai tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng,
không quá ba tháng đối với tội phạm nghiêm
trọng, không quá bốn tháng đối với tội
phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng, kể từ khi khởi tố
vụ án cho đến khi kết thúc điều tra.
2.
Trong trường hợp cần gia hạn điều tra
do tính chất phức tạp của vụ án thì chậm
nhất là mười ngày trước khi hết hạn điều
tra, Cơ quan điều tra phải có văn bản
đề nghị Viện kiểm sát gia hạn
điều tra.
Việc
gia hạn điều tra được quy định
như sau:
a)
Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có
thể được gia hạn điều tra một
lần không quá hai tháng;
b)
Đối với tội phạm nghiêm trọng có thể
được gia hạn điều tra hai lần, lần
thứ nhất không quá ba tháng và lần thứ hai không quá
hai tháng;
c)
Đối với tội phạm rất nghiêm trọng có
thể được gia hạn điều tra hai lần,
mỗi lần không quá bốn tháng;
d)
Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng có thể được gia hạn điều tra
ba lần, mỗi lần không quá bốn tháng.
3.
Thẩm quyền gia hạn điều tra của Viện
kiểm sát được quy định như sau:
a)
Đối với tội phạm ít nghiêm trọng thì
Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện kiểm
sát quân sự khu vực gia hạn điều tra. Trong
trường hợp vụ án được thụ lý
để điều tra ở cấp tỉnh, cấp quân
khu thì Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện
kiểm sát quân sự cấp quân khu gia hạn điều
tra;
b)
Đối với tội phạm nghiêm trọng thì Viện
kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện kiểm sát quân
sự khu vực gia hạn điều tra lần thứ
nhất và lần thứ hai. Trong trường hợp
vụ án được thụ lý để điều tra
ở cấp tỉnh, cấp quân khu thì Viện kiểm sát
nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự
cấp quân khu gia hạn điều tra lần thứ
nhất và lần thứ hai;
c)
Đối với tội phạm rất nghiêm trọng thì
Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện kiểm
sát quân sự khu vực gia hạn điều tra lần
thứ nhất; Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh,
Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu gia hạn
điều tra lần thứ hai. Trong trường hợp
vụ án được thụ lý để điều tra
ở cấp tỉnh, cấp quân khu thì Viện kiểm sát
nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự
cấp quân khu gia hạn điều tra lần thứ nhất
và lần thứ hai;
d)
Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng thì Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh,
Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu gia hạn
điều tra lần thứ nhất và lần thứ hai;
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát
quân sự trung ương gia hạn điều tra lần
thứ ba.
4.
Trong trường hợp vụ án được thụ lý
để điều tra ở cấp trung ương thì
việc gia hạn điều tra thuộc thẩm quyền
của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện
kiểm sát quân sự trung ương.
5.
Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng mà thời hạn gia hạn điều tra đã
hết, nhưng do tính chất rất phức tạp
của vụ án mà chưa thể kết thúc việc
điều tra thì Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao có thể gia hạn thêm một lần
không quá bốn tháng.
Đối
với tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có
quyền gia hạn thêm một lần nữa không quá
bốn tháng.
6.
Khi đã hết thời hạn gia hạn điều tra mà
không chứng minh được bị can đã thực
hiện tội phạm thì Cơ quan điều tra phải
ra quyết định đình chỉ điều tra.
Điều
120.
Thời hạn tạm giam để điều tra
1. Thời hạn tạm giam bị can
để điều tra không quá hai tháng đối với
tội phạm ít nghiêm trọng, không quá ba tháng đối
với tội phạm nghiêm trọng, không quá bốn tháng
đối với tội phạm rất nghiêm trọng và
tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
2.
Trong trường hợp vụ án có nhiều tình tiết
phức tạp, xét cần phải có thời gian dài hơn
cho việc điều tra và không có căn cứ để
thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp tạm
giam thì chậm nhất là mười ngày trước khi
hết hạn tạm giam, Cơ quan điều tra phải
có văn bản đề nghị Viện kiểm sát gia
hạn tạm giam.
Việc
gia hạn tạm giam được quy định như
sau:
a)
Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể
được gia hạn tạm giam một lần không quá
một tháng;
b)
Đối với tội phạm nghiêm trọng có thể
được gia hạn tạm giam hai lần, lần
thứ nhất không quá hai tháng và lần thứ hai không quá
một tháng;
c)
Đối với tội phạm rất nghiêm trọng có
thể được gia hạn tạm giam hai lần,
lần thứ nhất không quá ba tháng, lần thứ hai
không quá hai tháng;
d)
Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng có thể được gia hạn tạm giam ba
lần, mỗi lần không quá bốn tháng.
3.
Thẩm quyền gia hạn tạm giam của Viện
kiểm sát được quy định như sau:
a) Viện kiểm sát nhân dân cấp
huyện, Viện kiểm sát quân sự khu vực có
quyền gia hạn tạm giam đối với tội
phạm ít nghiêm trọng, gia hạn tạm giam lần
thứ nhất đối với tội phạm nghiêm
trọng và tội phạm rất nghiêm trọng. Trong
trường hợp vụ án được thụ lý để
điều tra ở cấp tỉnh, cấp quân khu thì
Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm
sát quân sự cấp quân khu có quyền gia hạn tạm
giam đối với tội phạm ít nghiêm trọng, gia
hạn tạm giam lần thứ nhất đối
với tội phạm nghiêm trọng, tội phạm
rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng;
b)
Trong trường hợp gia hạn tạm giam lần
thứ nhất quy định tại điểm a
khoản này đã hết mà vẫn chưa thể kết
thúc việc điều tra và không có căn cứ để
thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm
giam thì Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện
kiểm sát quân sự khu vực có thể gia hạn tạm
giam lần thứ hai đối với tội phạm
nghiêm trọng. Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện
kiểm sát quân sự cấp quân khu có thể gia hạn
tạm giam lần thứ hai đối với tội
phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm
trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
4.
Trong trường hợp vụ án được thụ lý
để điều tra ở cấp trung ương thì
việc gia hạn tạm giam thuộc thẩm quyền
của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện
kiểm sát quân sự trung ương.
5.
Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng, trong trường hợp thời hạn gia
hạn tạm giam lần thứ hai quy định tại
điểm b khoản 3 Điều này đã hết và
vụ án có nhiều tình tiết rất phức tạp mà
không có căn cứ để thay đổi hoặc
hủy bỏ biện pháp tạm giam thì Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có thể
gia hạn tạm giam lần thứ ba.
Trong
trường hợp cần thiết đối với
tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có
quyền gia hạn thêm một lần nữa không quá
bốn tháng.
6. Trong khi tạm giam, nếu xét thấy
không cần thiết phải tiếp tục tạm giam thì
Cơ quan điều tra phải kịp thời đề
nghị Viện kiểm sát huỷ bỏ việc tạm
giam để trả tự do cho người bị
tạm giam hoặc xét cần thì áp dụng biện pháp
ngăn chặn khác.
Khi
đã hết thời hạn tạm giam thì người ra
lệnh tạm giam phải trả tự do cho người
bị tạm giam hoặc xét cần thì áp dụng biện
pháp ngăn chặn khác.
Điều
121.
Thời hạn phục hồi điều tra, điều
tra bổ sung, điều tra lại
1.
Trong trường hợp phục hồi điều tra quy
định tại Điều 165 của Bộ luật này
thì thời hạn điều tra tiếp không quá hai tháng
đối với tội phạm ít nghiêm trọng, tội
phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm
trọng, không quá ba tháng đối với tội phạm
đặc biệt nghiêm trọng, kể từ khi có
quyết định phục hồi điều tra cho
đến khi kết thúc điều tra.
Trong
trường hợp cần gia hạn điều tra do tính
chất phức tạp của vụ án thì chậm nhất
là mười ngày trước khi hết hạn
điều tra, Cơ quan điều tra phải có văn
bản đề nghị Viện kiểm sát gia hạn
điều tra. Việc gia hạn điều tra
được quy định như sau:
a)
Đối với tội phạm nghiêm trọng và tội
phạm rất nghiêm trọng được gia hạn
điều tra một lần không quá hai tháng;
b)
Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng được gia hạn điều tra một
lần không quá ba tháng.
Thẩm
quyền gia hạn điều tra đối với
từng loại tội phạm theo quy định tại
khoản 3 Điều 119 của Bộ luật này.
2.
Trong trường hợp vụ án do Viện kiểm sát
trả lại để điều tra bổ sung thì
thời hạn điều tra bổ sung không quá hai tháng;
nếu do Toà án trả lại để điều tra
bổ sung thì thời hạn điều tra bổ sung không
quá một tháng. Viện kiểm sát hoặc Toà án chỉ
được trả lại hồ sơ để
điều tra bổ sung không quá hai lần. Thời hạn
điều tra bổ sung tính từ ngày Cơ quan
điều tra nhận lại hồ sơ vụ án và yêu
cầu điều tra.
3.
Trong trường hợp vụ án được trả
lại để điều tra lại thì thời hạn
điều tra và gia hạn điều tra theo thủ
tục chung quy định tại Điều 119 của
Bộ luật này.
Thời
hạn điều tra được tính từ khi Cơ
quan điều tra nhận hồ sơ và yêu cầu
điều tra lại.
4.
Khi phục hồi điều tra, điều tra bổ
sung, điều tra lại, Cơ quan điều tra có
quyền áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ
biện pháp ngăn chặn theo quy định của
Bộ luật này.
Trong
trường hợp có căn cứ theo quy định
của Bộ luật này cần phải tạm giam thì
thời hạn tạm giam để phục hồi
điều tra, để điều tra bổ sung không
được quá thời hạn phục hồi
điều tra, điều tra bổ sung quy định
tại khoản 1 và khoản 2 Điều này.
Thời
hạn tạm giam và gia hạn tạm giam trong
trường hợp vụ án được điều
tra lại theo thủ tục chung quy định tại
Điều 120 của Bộ luật này.
Điều
122. Giải
quyết các yêu cầu của người tham gia tố
tụng
Khi
người tham gia tố tụng có yêu cầu về
những vấn đề liên quan đến vụ án thì
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát trong phạm vi
trách nhiệm của mình, giải quyết yêu cầu
của họ và báo cho họ biết kết quả. Trong
trường hợp không chấp nhận yêu cầu thì
Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát
phải trả lời và nêu rõ lý do.
Nếu
không đồng ý với kết quả giải quyết
của Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát
thì người tham gia tố tụng có quyền khiếu
nại. Việc khiếu nại và giải quyết
khiếu nại được thực hiện theo quy
định tại Chương XXXV của Bộ luật
này.
Điều
123.
Sự tham dự của người chứng kiến
Người
chứng kiến được mời tham dự hoạt
động điều tra trong những trường
hợp do Bộ luật này quy định.
Người
chứng kiến có trách nhiệm xác nhận nội dung và
kết quả công việc mà Điều tra viên đã
tiến hành trong khi mình có mặt và có thể nêu ý kiến cá
nhân. ý kiến này được ghi vào biên bản.
Điều
124.
Không được tiết lộ bí mật điều tra
Trong
trường hợp cần giữ bí mật điều
tra, Điều tra viên, Kiểm sát viên phải báo
trước cho người tham gia tố tụng,
người chứng kiến không được tiết
lộ bí mật điều tra. Việc báo này phải
được ghi vào biên bản.
Điều
tra viên, Kiểm sát viên, người tham gia tố tụng,
người chứng kiến tiết lộ bí mật
điều tra thì tùy trường hợp phải chịu
trách nhiệm hình sự theo các điều 263, 264, 286, 287,
327 và 328 của Bộ luật hình sự.
Điều
125.
Biên bản điều tra
1.
Khi tiến hành điều tra phải lập biên bản
theo quy định tại Điều 95 của Bộ
luật này.
Điều
tra viên lập biên bản phải đọc lại biên
bản cho người tham gia tố tụng nghe, giải
thích cho họ biết quyền được bổ sung và
nhận xét về biên bản. Nhận xét đó
được ghi vào biên bản. Người tham gia tố
tụng và Điều tra viên cùng ký tên vào biên bản.
2.
Trong trường hợp người tham gia tố tụng
từ chối ký vào biên bản, thì việc đó phải
được ghi vào biên bản và nêu rõ lý do.
3.
Nếu người tham gia tố tụng vì nhược
điểm về tâm thần hoặc thể chất
hoặc vì lý do khác mà không thể ký vào biên bản thì
phải ghi rõ lý do; Điều tra viên và người
chứng kiến cùng xác nhận.
Người
không biết chữ thì điểm chỉ vào biên bản.
CHƯƠNG X
KHỞI TỐ BỊ CAN VÀ HỎI CUNG BỊ CAN
Điều
126.
Khởi tố bị can
1.
Khi có đủ căn cứ để xác định
một người đã thực hiện hành vi phạm
tội thì Cơ quan điều tra ra quyết định
khởi tố bị can.
2.
Quyết định khởi tố bị can ghi rõ: thời
gian, địa điểm ra quyết định; họ
tên, chức vụ người ra quyết định;
họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nghề nghiệp, hoàn
cảnh gia đình của bị can; bị can bị khởi
tố về tội gì, theo điều khoản nào của
Bộ luật hình sự; thời gian, địa
điểm phạm tội và những tình tiết khác
của tội phạm.
Nếu
bị can bị khởi tố về nhiều tội khác
nhau thì trong quyết định khởi tố bị can
phải ghi rõ từng tội danh và điều khoản
của Bộ luật hình sự được áp dụng.
3.
Sau khi khởi tố bị can, Cơ quan điều tra
phải chụp ảnh, lập danh chỉ bản của
bị can và đưa vào hồ sơ vụ án.
4.
Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết
định khởi tố bị can, Cơ quan điều
tra phải gửi quyết định khởi tố và tài
liệu liên quan đến việc khởi tố bị can
đó cho Viện kiểm sát cùng cấp để xét phê
chuẩn việc khởi tố. Trong thời hạn ba ngày,
kể từ ngày nhận được quyết
định khởi tố bị can, Viện kiểm sát
phải quyết định phê chuẩn hoặc quyết
định hủy bỏ quyết định khởi
tố bị can và gửi ngay cho Cơ quan điều tra.
5.
Trong trường hợp phát hiện có người đã
thực hiện hành vi phạm tội chưa bị
khởi tố thì Viện kiểm sát yêu cầu Cơ quan
điều tra ra quyết định khởi tố bị
can.
Sau khi nhận hồ sơ và kết
luận điều tra mà Viện kiểm sát phát hiện có
người khác đã thực hiện hành vi phạm
tội trong vụ án chưa bị khởi tố thì
Viện kiểm sát ra quyết định khởi tố
bị can. Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra
quyết định khởi tố bị can, Viện
kiểm sát phải gửi cho Cơ quan điều tra
để tiến hành điều tra.
6.
Cơ quan điều tra phải giao ngay quyết
định khởi tố bị can của mình hoặc
quyết định khởi tố bị can của
Viện kiểm sát và giải thích quyền, nghĩa vụ
cho bị can quy định tại Điều 49 của
Bộ luật này. Sau khi nhận được quyết
định phê chuẩn hoặc quyết định
huỷ bỏ quyết định khởi tố bị can
của Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra
phải giao ngay cho người đã bị khởi tố.
Việc giao nhận các quyết định nói trên phải
lập biên bản theo quy định tại Điều 95
của Bộ luật này.
Điều
127.
Thay đổi hoặc bổ sung quyết định
khởi tố bị can
1. Khi tiến hành điều tra, nếu có
căn cứ xác định hành vi phạm tội của
bị can không phạm vào tội đã bị khởi
tố hoặc còn hành vi phạm tội khác thì Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát ra quyết định
thay đổi hoặc bổ sung quyết định
khởi tố bị can.
2. Trong thời hạn 24 giờ, kể
từ khi ra quyết định thay đổi hoặc
bổ sung quyết định khởi tố bị can,
Cơ quan điều tra phải gửi các quyết
định này và tài liệu có liên quan đến việc
thay đổi hoặc bổ sung đó cho Viện kiểm
sát cùng cấp để xét phê chuẩn. Trong thời
hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được
quyết định thay đổi hoặc bổ sung
quyết định khởi tố bị can, Viện
kiểm sát phải quyết định phê chuẩn
hoặc quyết định hủy bỏ quyết
định thay đổi hoặc bổ sung quyết
định khởi tố bị can.
Trong
thời hạn 24 giờ, kể từ khi Viện kiểm
sát ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung
quyết định khởi tố bị can, Viện
kiểm sát phải gửi cho Cơ quan điều tra
để tiến hành điều tra.
3.
Cơ quan điều tra phải giao ngay quyết
định thay đổi hoặc bổ sung quyết
định khởi tố bị can của mình hoặc
quyết định thay đổi hoặc bổ sung
quyết định khởi tố bị can của
Viện kiểm sát và giải thích quyền, nghĩa vụ
cho bị can quy định tại Điều 49 của
Bộ luật này. Sau khi nhận được quyết
định phê chuẩn hoặc quyết định
huỷ bỏ quyết định thay đổi hoặc
bổ sung quyết định khởi tố bị can
của Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra
phải giao ngay cho người đã bị khởi tố.
Việc giao nhận các quyết định nói trên phải
lập biên bản theo quy định tại Điều 95
của Bộ luật này.
Điều
128. Tạm
đình chỉ chức vụ bị can đang đảm
nhiệm
Khi
xét thấy việc bị can tiếp tục giữ
chức vụ gây khó khăn cho việc điều tra thì
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát có quyền
kiến nghị với cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền quản lý bị can tạm đình chỉ chức
vụ của bị can. Trong thời hạn bảy ngày,
kể từ ngày nhận được kiến nghị,
cơ quan, tổ chức này phải trả lời bằng
văn bản cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát đã kiến nghị biết.
Điều
129.
Triệu tập bị can
1.
Khi triệu tập bị can, Điều tra viên phải
gửi giấy triệu tập. Giấy triệu tập
bị can ghi rõ họ tên, chỗ ở của bị can;
ngày, giờ, tháng, năm, địa điểm có mặt,
gặp ai và trách nhiệm về việc vắng mặt
không có lý do chính đáng.
2.
Giấy triệu tập bị can được gửi
cho chính quyền xã, phường, thị trấn nơi
bị can cư trú hoặc cho cơ quan, tổ chức
nơi bị can làm việc. Cơ quan, tổ chức nhận
được giấy triệu tập có trách nhiệm
chuyển ngay giấy triệu tập cho bị can.
Khi
nhận giấy triệu tập, bị can phải ký
nhận, có ghi rõ ngày, giờ nhận. Người chuyển
giấy triệu tập phải chuyển phần giấy
triệu tập có ký nhận của bị can cho cơ quan
đã triệu tập bị can; nếu bị can không ký
nhận thì phải lập biên bản về việc đó
và gửi cho cơ quan triệu tập bị can; nếu
bị can vắng mặt thì có thể giao giấy triệu
tập cho một người đã thành niên trong gia đình
để ký xác nhận và chuyển cho bị can. Bị can
đang bị tạm giam được triệu tập
thông qua Ban giám thị trại tạm giam.
3.
Bị can phải có mặt theo giấy triệu tập.
Trong trường hợp vắng mặt không có lý do chính
đáng hoặc có biểu hiện trốn tránh thì
Điều tra viên có thể ra quyết định áp
giải.
4.
Trong trường hợp cần thiết, Kiểm sát viên có
thể triệu tập bị can. Việc triệu tập
bị can được tiến hành theo quy định
tại Điều này.
Điều
130.
Áp giải bị can tại ngoại
1.
Quyết định áp giải bị can ghi rõ thời gian,
địa điểm ra quyết định; họ tên,
chức vụ người ra quyết định; họ
tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi cư trú của bị can;
tội danh mà bị can đã bị khởi tố; thời
gian, địa điểm bị can phải có mặt.
2.
Người thi hành quyết định áp giải phải
đọc, giải thích quyết định và lập biên
bản về việc áp giải theo quy định tại
Điều 95 của Bộ luật này.
3.
Không được áp giải bị can vào ban đêm.
Điều
131.
Hỏi cung bị can
1.
Việc hỏi cung bị can phải do Điều tra viên
tiến hành ngay sau khi có quyết định khởi tố
bị can. Có thể hỏi cung bị can tại nơi
tiến hành điều tra hoặc tại nơi ở
của người đó.
Trước
khi hỏi cung, Điều tra viên phải đọc
quyết định khởi tố bị can và giải
thích cho bị can biết rõ quyền và nghĩa vụ theo
quy định tại Điều 49 của Bộ luật
này. Việc này phải được ghi vào biên bản.
Nếu
vụ án có nhiều bị can thì hỏi riêng từng
người và không để họ tiếp xúc với nhau.
Có thể cho bị can tự viết lời khai của
mình.
2.
Không hỏi cung vào ban đêm, trừ trường hợp không
thể trì hoãn được, nhưng phải ghi rõ lý do vào
biên bản.
3.
Trong trường hợp cần thiết, Kiểm sát viên có
thể hỏi cung bị can. Việc hỏi cung bị can
được tiến hành theo quy định tại
Điều này.
4.
Điều tra viên hoặc Kiểm sát viên bức cung
hoặc dùng nhục hình đối với bị can thì
phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định
tại Điều 299 hoặc Điều 298 của Bộ
luật hình sự.
Điều
132.
Biên bản hỏi cung bị can
1.
Biên bản hỏi cung bị can phải được
lập theo quy định tại Điều 95 và
Điều 125 của Bộ luật này.
Mỗi
lần hỏi cung đều phải lập biên bản.
Biên bản phải ghi đầy đủ lời trình bày
của bị can, các câu hỏi và câu trả lời. Nghiêm
cấm Điều tra viên tự mình thêm, bớt hoặc
sửa chữa lời khai của bị can.
2.
Sau khi hỏi cung, Điều tra viên đọc lại biên
bản cho bị can nghe hoặc để bị can tự
đọc. Trong trường hợp có bổ sung và sửa
chữa biên bản thì bị can và Điều tra viên cùng ký
xác nhận. Nếu biên bản có nhiều trang thì bị can
ký vào từng trang của biên bản. Trong trường
hợp bị can tự viết lời khai thì Điều
tra viên và bị can cùng ký xác nhận tờ khai đó.
Nếu
việc hỏi cung được ghi âm thì sau khi hỏi
cung, phải phát lại để bị can và Điều
tra viên cùng nghe. Biên bản phải ghi lại nội dung
việc hỏi cung, bị can và Điều tra viên cùng ký xác
nhận.
Trong
trường hợp hỏi cung bị can có người
phiên dịch thì Điều tra viên phải giải thích
quyền và nghĩa vụ của người phiên dịch,
đồng thời giải thích cho bị can biết được
quyền yêu cầu thay đổi người phiên
dịch. Người phiên dịch và bị can cùng ký vào
từng trang của biên bản hỏi cung.
3.
Khi hỏi cung có mặt người bào chữa,
người đại diện hợp pháp của bị
can thì Điều tra viên phải giải thích cho những
người này biết quyền và nghĩa vụ của
họ trong khi hỏi cung bị can. Bị can, người
bào chữa, người đại diện hợp pháp cùng
ký vào biên bản hỏi cung.
Trong
trường hợp người bào chữa
được hỏi bị can thì trong biên bản phải
ghi đầy đủ câu hỏi của người bào
chữa và trả lời của bị can.
4.
Trong trường hợp Kiểm sát viên hỏi cung bị
can thì phải thực hiện theo quy định của
Điều này.
CHƯƠNG XI
LẤY LỜI KHAI NGƯỜI LÀM CHỨNG, NGƯỜI
BỊ HẠI,
NGUYÊN ĐƠN DÂN SỰ, BỊ ĐƠN DÂN SỰ,
NGƯỜI CÓ QUYỀN LỢI, NGHĨA VỤ LIÊN QUAN
ĐẾN VỤ ÁN.
ĐỐI CHẤT VÀ NHẬN DẠNG
Điều 133. Triệu
tập người làm chứng
1.
Khi triệu tập người làm chứng, Điều tra
viên phải gửi giấy triệu tập. Giấy
triệu tập người làm chứng phải ghi rõ
họ tên, chỗ ở của người làm chứng,
ngày, giờ, tháng, năm và địa điểm có
mặt; gặp ai và trách nhiệm về việc vắng
mặt không có lý do chính đáng.
2.
Giấy triệu tập được giao trực
tiếp cho người làm chứng hoặc thông qua chính
quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ
quan, tổ chức nơi người làm chứng cư trú
hoặc làm việc. Các cơ quan, tổ chức đó có
trách nhiệm tạo điều kiện cho người làm
chứng thực hiện nghĩa vụ.
Trong
mọi trường hợp, việc giao giấy triệu
tập phải được ký nhận.
3.
Giấy triệu tập người làm chứng chưa
đủ 16 tuổi được giao cho cha, mẹ
hoặc người đại diện hợp pháp khác
của họ.
4.
Trong trường hợp cần thiết, Kiểm sát viên có
thể triệu tập người làm chứng. Việc
triệu tập người làm chứng được
thực hiện theo quy định tại Điều này.
Điều
134.
Dẫn giải người làm chứng
1.
Trong trường hợp người làm chứng đã
được Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát triệu tập nhưng cố ý không đến mà không
có lý do chính đáng và việc họ vắng mặt gây
trở ngại cho việc điều tra, truy tố thì
cơ quan đã triệu tập người làm chứng có
thể ra quyết định dẫn giải.
2.
Quyết định dẫn giải người làm
chứng ghi rõ thời gian, địa điểm ra
quyết định; họ tên, chức vụ người
ra quyết định; họ tên, ngày, tháng, năm sinh,
nơi cư trú của người làm chứng; thời
gian, địa điểm người làm chứng
phải có mặt.
3.
Người thi hành quyết định dẫn giải
phải đọc, giải thích quyền và nghĩa vụ
của người làm chứng và lập biên bản về
việc dẫn giải theo quy định tại
Điều 95 của Bộ luật này.
4.
Không được dẫn giải người làm
chứng vào ban đêm.
Điều
135. Lấy
lời khai người làm chứng
1.
Việc lấy lời khai người làm chứng
được tiến hành tại nơi tiến hành
điều tra hoặc nơi cư trú, nơi làm việc
của người đó.
2.
Nếu vụ án có nhiều người làm chứng thì
phải lấy lời khai riêng từng người và không
để cho họ tiếp xúc với nhau trong thời gian
lấy lời khai.
3.
Trước khi lấy lời khai, Điều tra viên
phải giải thích cho người làm chứng biết
quyền và nghĩa vụ của họ. Việc này
phải được ghi vào biên bản.
4.
Trước khi hỏi về nội dung vụ án,
Điều tra viên cần xác minh mối quan hệ giữa
người làm chứng với bị can, người
bị hại và những tình tiết khác về nhân thân
của người làm chứng. Điều tra viên cần
yêu cầu người làm chứng kể hoặc viết
lại những gì mà họ biết về vụ án, sau
đó mới đặt câu hỏi. Không được
đặt câu hỏi có tính chất gợi ý.
5.
Khi lấy lời khai của người làm chứng
dưới 16 tuổi phải mời cha mẹ hoặc
người đại diện hợp pháp khác hoặc
thầy giáo, cô giáo của người đó tham dự.
6. Trong trường hợp cần
thiết, Kiểm sát viên có thể lấy lời khai
người làm chứng. Việc lấy lời khai
người làm chứng được tiến hành theo quy
định tại Điều này.
Điều
136. Biên
bản ghi lời khai của người làm chứng
Biên
bản ghi lời khai của người làm chứng
phải được lập theo quy định tại
các điều 95, 125 và 132 của Bộ luật này.
Điều
137.
Triệu tập, lấy lời khai của người
bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn
dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan đến vụ án
Việc
triệu tập, lấy lời khai của người
bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn
dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan đến vụ án được tiến hành theo
quy định tại các điều 133, 135 và 136 của
Bộ luật này.
Điều
138. Đối
chất
1.
Trong trường hợp có sự mâu thuẫn trong lời
khai giữa hai hay nhiều người thì Điều tra
viên tiến hành đối chất.
2. Nếu có người làm chứng
hoặc người bị hại tham gia đối
chất thì trước tiên Điều tra viên phải
giải thích cho họ biết trách nhiệm về việc
từ chối, trốn tránh khai báo hoặc cố tình khai
báo gian dối. Việc này phải được ghi vào biên
bản.
3.
Khi bắt đầu đối chất, Điều tra
viên hỏi về mối quan hệ giữa những người
tham gia đối chất, sau đó hỏi họ về
những tình tiết cần làm sáng tỏ. Khi đã nghe
những lời khai trong đối chất, Điều tra
viên có thể hỏi thêm từng người.
Điều
tra viên cũng có thể để cho những người
tham gia đối chất hỏi lẫn nhau; câu hỏi và
trả lời của những người này phải
được ghi vào biên bản.
Chỉ
sau khi những người tham gia đối chất đã
khai xong mới được nhắc lại những
lời khai lần trước của họ.
4.
Biên bản đối chất phải lập theo quy
định tại các điều 95, 125 và 132 của Bộ
luật này.
5.
Trong trường hợp cần thiết, Kiểm sát viên có
thể tiến hành đối chất. Việc đối
chất được tiến hành theo quy định
tại Điều này.
Điều
139.
Nhận dạng
1.
Khi cần thiết, Điều tra viên có thể mời
người hoặc đưa vật, ảnh cho
người làm chứng, người bị hại
hoặc bị can nhận dạng.
Điều
tra viên phải hỏi trước người nhận
dạng về những tình tiết, vết tích và
đặc điểm mà nhờ đó họ có thể
nhận dạng được.
2.
Số người, vật hoặc ảnh đưa ra
để nhận dạng ít nhất phải là ba và về
bề ngoài phải tương tự giống nhau.
Đối với việc nhận dạng tử thi thì
không áp dụng nguyên tắc này.
Trong
trường hợp đặc biệt có thể cho xác
nhận người qua tiếng nói.
3.
Nếu người làm chứng hay người bị
hại là người nhận dạng thì trước khi
tiến hành, Điều tra viên phải giải thích cho
họ biết trách nhiệm về việc từ chối,
trốn tránh khai báo hoặc cố ý khai báo gian dối.
Việc giải thích đó phải được ghi vào
biên bản.
4. Trong khi tiến hành nhận dạng,
Điều tra viên không được đặt câu
hỏi có tính chất gợi ý. Sau khi người nhận
dạng đã xác nhận một người, một
vật hay một ảnh trong số được
đưa ra để nhận dạng thì Điều tra
viên yêu cầu họ giải thích là họ đã căn
cứ vào các vết tích hoặc đặc điểm gì mà
xác nhận người, vật hay ảnh đó.
Việc
tiến hành nhận dạng phải có mặt người
chứng kiến.
5.
Biên bản nhận dạng phải được lập
theo quy định tại các điều 95, 125 và 132 của
Bộ luật này. Trong biên bản cần ghi rõ nhân thân
của người nhận dạng và của những
người được đưa ra để nhận
dạng; những đặc điểm của vật,
ảnh được đưa ra để nhận
dạng; các lời khai báo, trình bày của người
nhận dạng.
CHƯƠNG XII
KHÁM XÉT, THU GIỮ, TẠM GIỮ, KÊ BIÊN TÀI SẢN
Điều
140.
Căn cứ khám người, chỗ ở, chỗ làm
việc, địa điểm, đồ vật, thư
tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm
1.
Việc khám người, chỗ ở, chỗ làm việc,
địa điểm chỉ được tiến hành
khi có căn cứ để nhận định trong
người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa
điểm của một người có công cụ,
phương tiện phạm tội, đồ vật, tài
sản do phạm tội mà có hoặc đồ vật, tài
liệu khác có liên quan đến vụ án.
Việc
khám chỗ ở, chỗ làm việc, địa
điểm cũng được tiến hành khi cần
phát hiện người đang bị truy nã.
2.
Khi cần phải thu thập tài liệu, đồ vật
liên quan đến vụ án thì có thể khám thư tín,
điện tín, bưu kiện, bưu phẩm.
Điều
141.
Thẩm quyền ra lệnh khám xét
1.
Những người được quy định tại
khoản 1 Điều 80 của Bộ luật này có quyền
ra lệnh khám xét trong mọi trường hợp. Lệnh
khám xét của những người được quy
định tại điểm d khoản 1 Điều 80
của Bộ luật này phải được Viện
kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.
2.
Trong trường hợp không thể trì hoãn, những
người được quy định tại khoản
2 Điều 81 của Bộ luật này có quyền ra
lệnh khám xét. Trong thời hạn 24 giờ, kể từ
khi khám xong, người ra lệnh khám phải thông báo bằng
văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp.
Điều
142.
Khám người
1.
Khi bắt đầu khám người, phải đọc
lệnh khám và đưa cho đương sự
đọc lệnh khám đó; giải thích cho
đương sự và những người có mặt
biết quyền và nghĩa vụ của họ.
Người
tiến hành khám phải yêu cầu đương sự
đưa ra những đồ vật, tài liệu có liên
quan đến vụ án, nếu đương sự
từ chối thì tiến hành khám.
2.
Khi khám người thì nam khám nam, nữ khám nữ và
phải có người cùng giới chứng kiến.
3.
Có thể tiến hành khám người mà không cần có
lệnh trong trường hợp bắt người
hoặc khi có căn cứ để khẳng định
người có mặt tại nơi khám xét giấu trong
người đồ vật, tài liệu cần thu
giữ.
Điều
143.
Khám chỗ ở, chỗ làm việc, địa
điểm
1.
Việc khám chỗ ở, chỗ làm việc, địa
điểm được tiến hành theo quy định
tại các điều 140, 141 và 142 của Bộ luật
này.
2.
Khi khám chỗ ở, địa điểm phải có
mặt người chủ hoặc người đã thành
niên trong gia đình họ, có đại diện chính
quyền xã, phường, thị trấn và người
láng giềng chứng kiến; trong trường hợp
đương sự và người trong gia đình họ
cố tình vắng mặt, bỏ trốn hoặc đi
vắng lâu ngày mà việc khám xét không thể trì hoãn thì
phải có đại diện chính quyền và hai
người láng giềng chứng kiến.
3.
Không được khám chỗ ở vào ban đêm, trừ
trường hợp không thể trì hoãn, nhưng phải ghi
rõ lý do vào biên bản.
4.
Khi khám chỗ làm việc của một người thì
phải có mặt người đó, trừ trường
hợp không thể trì hoãn, nhưng phải ghi rõ lý do vào biên
bản.
Việc
khám chỗ làm việc phải có đại diện của
cơ quan, tổ chức nơi người đó làm
việc chứng kiến.
5.
Khi tiến hành khám chỗ ở, chỗ làm việc,
địa điểm những người có mặt không
được tự ý rời khỏi nơi đang
bị khám, không được liên hệ, trao đổi
với nhau hoặc với những người khác cho
đến khi khám xong.
Điều
144.
Thu giữ thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu
phẩm tại bưu điện
Khi
cần thiết phải thu giữ thư tín, điện
tín, bưu kiện, bưu phẩm tại bưu
điện thì Cơ quan điều tra ra lệnh thu giữ.
Lệnh này phải được Viện kiểm sát cùng
cấp phê chuẩn trước khi thi hành, trừ
trường hợp không thể trì hoãn nhưng phải ghi
rõ lý do vào biên bản và sau khi thu giữ phải thông báo ngay
cho Viện kiểm sát cùng cấp biết.
Người
thi hành lệnh phải thông báo cho người phụ trách
cơ quan bưu điện hữu quan trước khi
tiến hành thu giữ. Người phụ trách cơ quan
bưu điện hữu quan phải giúp đỡ
người thi hành lệnh thu giữ hoàn thành nhiệm
vụ.
Khi
thu giữ thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu
phẩm, phải có đại diện của cơ quan
bưu điện chứng kiến và ký xác nhận vào biên
bản.
Cơ
quan ra lệnh thu giữ phải thông báo cho người có
thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm
bị thu giữ biết. Nếu thông báo cản trở
việc điều tra thì sau khi cản trở đó không
còn nữa, cơ quan ra lệnh thu giữ phải thông báo
ngay.
Điều
145.
Tạm giữ đồ vật, tài liệu khi khám xét
Khi
khám xét, Điều tra viên được tạm giữ
đồ vật là vật chứng và tài liệu có liên quan
trực tiếp đến vụ án. Đối với
đồ vật thuộc loại cấm tàng trữ,
lưu hành thì phải thu giữ và chuyển ngay cho cơ
quan quản lý có thẩm quyền. Trong trường hợp
cần thiết phải niêm phong thì tiến hành
trước mặt chủ đồ vật hoặc
đại diện gia đình, đại diện chính
quyền và người chứng kiến.
Việc
tạm giữ đồ vật, tài liệu khi tiến hành
khám xét phải được lập biên bản. Biên
bản tạm giữ được lập thành bốn
bản: một bản giao cho người chủ
đồ vật, tài liệu; một bản đưa vào
hồ sơ vụ án; một bản gửi cho Viện
kiểm sát cùng cấp và một bản giao cho cơ quan
quản lý đồ vật, tài liệu bị tạm
giữ.
Điều
146.
Kê biên tài sản
1.
Việc kê biên tài sản chỉ áp dụng đối
với bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật
hình sự quy định có thể tịch thu tài sản
hoặc phạt tiền cũng như đối với
người phải chịu trách nhiệm bồi
thường thiệt hại theo quy định của pháp
luật.
Những
người có thẩm quyền quy định tại
khoản 1 Điều 80 của Bộ luật này có
quyền ra lệnh kê biên tài sản. Lệnh kê biên của
những người được quy định tại
điểm d khoản 1 Điều 80 của Bộ
luật này phải được thông báo ngay cho Viện
kiểm sát cùng cấp trước khi thi hành.
2.
Chỉ kê biên phần tài sản tương ứng với
mức có thể bị tịch thu, phạt tiền
hoặc bồi thường thiệt hại.
Tài
sản bị kê biên được giao cho chủ tài
sản hoặc người thân thích của họ bảo
quản. Người được giao bảo quản mà
có hành vi tiêu dùng, chuyển nhượng, đánh tráo, cất
giấu, hủy hoại tài sản bị kê biên thì phải
chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 310 của
Bộ luật hình sự.
3.
Khi tiến hành kê biên tài sản, phải có mặt
đương sự hoặc người đã thành niên
trong gia đình, đại diện chính quyền xã,
phường, thị trấn và người láng giềng
chứng kiến. Người tiến hành kê biên phải
lập biên bản, ghi rõ tên và tình trạng từng tài
sản bị kê biên. Biên bản phải lập theo quy
định tại Điều 95 và Điều 125 của
Bộ luật này, đọc cho đương sự và
những người có mặt nghe và cùng ký tên. Những
khiếu nại của đương sự được
ghi vào biên bản, có chữ ký xác nhận của họ và
của người tiến hành kê biên.
Biên
bản kê biên được lập thành ba bản: một
bản được giao ngay cho đương sự sau
khi kê biên xong; một bản gửi cho Viện kiểm sát
cùng cấp và một bản đưa vào hồ sơ
vụ án.
4.
Khi xét thấy việc kê biên không còn cần thiết thì
người có thẩm quyền quy định tại
khoản 1 Điều 80 của Bộ luật này phải
kịp thời ra quyết định hủy bỏ
lệnh kê biên.
Điều
147.
Trách nhiệm bảo quản đồ vật, tài liệu,
thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm
bị thu giữ, tạm giữ hoặc bị niêm phong
Đồ
vật, tài liệu, thư tín, điện tín, bưu
kiện, bưu phẩm bị thu giữ, tạm giữ
hoặc bị niêm phong theo quy định tại các
điều 75, 144 và 145 của Bộ luật này phải
được bảo quản nguyên vẹn.
Người
được giao bảo quản mà phá hủy niêm phong,
tiêu dùng, chuyển nhượng, đánh tráo, cất giấu
hoặc hủy hoại tài sản được giao
bảo quản thì phải chịu trách nhiệm hình sự
theo Điều 310 của Bộ luật hình sự.
Điều
148. Biên
bản khám xét, thu giữ, tạm giữ đồ vật,
tài liệu, thư tín, điện tín, bưu kiện,
bưu phẩm
Khi
tiến hành khám xét, thu giữ, tạm giữ đồ
vật, tài liệu, thư tín, điện tín, bưu
kiện, bưu phẩm phải lập biên bản theo quy
định tại Điều 95 và Điều 125 của
Bộ luật này.
Điều
149.
Trách nhiệm của người ra lệnh và thi hành
lệnh khám xét, kê biên tài sản, thu giữ, tạm giữ
đồ vật, tài liệu, thư tín, điện tín,
bưu kiện, bưu phẩm
Người ra lệnh, người thi hành
lệnh khám xét, kê biên tài sản, thu giữ, tạm giữ
đồ vật, tài liệu, thư tín, điện tín,
bưu kiện, bưu phẩm trái pháp luật thì tùy theo tính
chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý
kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình
sự.
CHƯƠNG XIII
KHÁM NGHIỆM HIỆN TRƯỜNG, KHÁM NGHIỆM TỬ THI,
XEM XÉT DẤU VẾT TRÊN THÂN THỂ,
THỰC NGHIỆM ĐIỀU TRA, GIÁM ĐỊNH
Điều
150.
Khám nghiệm hiện trường
1.
Điều tra viên tiến hành khám nghiệm nơi xảy
ra, nơi phát hiện tội phạm nhằm phát hiện
dấu vết của tội phạm, vật chứng và
làm sáng tỏ các tình tiết có ý nghĩa đối với
vụ án.
2.
Khám nghiệm hiện trường có thể tiến hành
trước khi khởi tố vụ án hình sự. Trong
mọi trường hợp, trước khi tiến hành
khám nghiệm, Điều tra viên phải thông báo cho Viện
kiểm sát cùng cấp biết. Kiểm sát viên phải có
mặt để kiểm sát việc khám nghiệm hiện
trường. Khi khám nghiệm, phải có người
chứng kiến; có thể để cho bị can,
người bị hại, người làm chứng và mời
nhà chuyên môn tham dự việc khám nghiệm.
3. Khi khám nghiệm hiện
trường, Điều tra viên tiến hành chụp
ảnh, vẽ sơ đồ, mô tả hiện
trường, đo đạc, dựng mô hình, thu
lượm và xem xét tại chỗ dấu vết của
tội phạm, đồ vật, tài liệu có liên quan
đến vụ án; ghi rõ kết quả xem xét vào biên
bản khám nghiệm hiện trường.
Trong trường hợp không
thể xem xét ngay được thì đồ vật và tài
liệu thu giữ phải được bảo quản,
giữ nguyên trạng hoặc niêm phong đưa về
nơi tiến hành điều tra.
Điều
151.
Khám nghiệm tử thi
Việc
khám nghiệm tử thi do Điều tra viên tiến hành có
bác sĩ pháp y tham gia và phải có người chứng
kiến.
Trong
trường hợp cần phải khai quật tử thi
thì phải có quyết định của Cơ quan
điều tra và phải thông báo cho gia đình nạn nhân
biết trước khi tiến hành. Việc khai quật
tử thi phải có bác sỹ pháp y tham gia.
Khi
cần thiết có thể triệu tập người giám
định và phải có người chứng kiến.
Trong
mọi trường hợp, việc khám nghiệm tử
thi phải được thông báo trước cho Viện
kiểm sát cùng cấp biết. Kiểm sát viên phải có
mặt để tiến hành kiểm sát việc khám
nghiệm tử thi.
Điều
152.
Xem xét dấu vết trên thân thể
1.
Điều tra viên tiến hành xem xét thân thể
người bị bắt, bị tạm giữ, bị
can, người bị hại, người làm chứng
để phát hiện trên người họ dấu
vết của tội phạm hoặc các dấu vết
khác có ý nghĩa đối với vụ án. Trong
trường hợp cần thiết thì Cơ quan
điều tra trưng cầu giám định pháp y.
2.
Việc xem xét thân thể phải do người cùng
giới tiến hành và phải có người cùng giới
chứng kiến. Trong trường hợp cần thiết
thì có bác sĩ tham gia.
Không
được xâm phạm đến danh dự, nhân
phẩm hoặc sức khỏe của người bị
xem xét thân thể.
Điều
153.
Thực nghiệm điều tra
1.
Để kiểm tra và xác minh những tài liệu,
những tình tiết có ý nghĩa đối với vụ
án, Cơ quan điều tra có quyền thực nghiệm
điều tra bằng cách cho dựng lại hiện
trường, diễn lại hành vi, tình huống hoặc
mọi tình tiết khác của một sự việc
nhất định và tiến hành các hoạt động
thực nghiệm cần thiết. Khi thấy cần, có
thể đo đạc, chụp ảnh, ghi hình, vẽ
sơ đồ.
2.
Khi tiến hành thực nghiệm điều tra, phải có
người chứng kiến. Trong trường hợp
cần thiết, người bị tạm giữ, bị
can, người bị hại, người làm chứng
cũng có thể tham gia.
Không được xâm phạm
đến danh dự, nhân phẩm, gây ảnh hưởng
đến sức khỏe của những người tham
gia việc thực nghiệm điều tra.
3.
Trong trường hợp cần thiết, Viện kiểm
sát có thể tiến hành thực nghiệm điều tra.
Việc thực nghiệm điều tra được
tiến hành theo quy định tại Điều này.
Điều
154.
Biên bản khám nghiệm hiện trường, khám
nghiệm tử thi, xem xét dấu vết trên thân thể và
thực nghiệm điều tra
Khi
tiến hành khám nghiệm hiện trường, khám
nghiệm tử thi, xem xét dấu vết trên thân thể và
thực nghiệm điều tra phải lập biên bản
theo quy định tại Điều 95 và Điều 125
của Bộ luật này.
Điều
155.
Trưng cầu giám định
1.
Khi có những vấn đề cần được xác
định theo quy định tại khoản 3
Điều này hoặc khi xét thấy cần thiết thì
cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết định
trưng cầu giám định.
2.
Quyết định trưng cầu giám định
phải nêu rõ yêu cầu giám định vấn đề
gì; họ tên người được trưng cầu
giám định hoặc tên cơ quan tiến hành giám
định; ghi rõ quyền và nghĩa vụ của
người giám định quy định tại
Điều 60 của Bộ luật này.
3.
Bắt buộc phải trưng cầu giám định khi
cần xác định:
a)
Nguyên nhân chết người, tính chất thương tích,
mức độ tổn hại sức khoẻ hoặc
khả năng lao động;
b)
Tình trạng tâm thần của bị can, bị cáo trong
trường hợp có sự nghi ngờ về năng
lực trách nhiệm hình sự của họ;
c)
Tình trạng tâm thần của người làm chứng
hoặc người bị hại trong trường
hợp có sự nghi ngờ về khả năng nhận thức
và khai báo đúng đắn đối với những tình
tiết của vụ án;
d)
Tuổi của bị can, bị cáo, người bị
hại, nếu việc đó có ý nghĩa đối
với vụ án và không có tài liệu khẳng định
tuổi của họ hoặc có sự nghi ngờ về
tính xác thực của những tài liệu đó;
đ)
Chất độc, chất ma tuý, chất phóng xạ,
tiền giả.
Điều
156.
Việc tiến hành giám định
1.
Việc giám định có thể tiến hành tại cơ
quan giám định hoặc tại nơi tiến hành
điều tra vụ án ngay sau khi có quyết định
trưng cầu giám định.
Điều
tra viên, Kiểm sát viên có quyền tham dự giám
định, nhưng phải báo trước cho
người giám định biết.
2.
Trong trường hợp việc giám định không
thể tiến hành theo thời hạn mà cơ quan trưng
cầu giám định yêu cầu thì cơ quan giám
định hoặc người giám định phải
thông báo ngay bằng văn bản và nêu rõ lý do cho cơ quan
đã trưng cầu giám định biết.
Điều
157. Nội
dung kết luận giám định
1.
Nội dung kết luận giám định phải ghi rõ:
thời gian, địa điểm tiến hành giám
định; họ tên, trình độ văn hóa, trình
độ chuyên môn của người giám định;
những người tham gia khi tiến hành giám định;
những dấu vết, đồ vật, tài liệu và
tất cả những gì đã được giám
định, những phương pháp được áp
dụng và giải đáp những vấn đề đã
được đặt ra có căn cứ cụ thể.
2. Để làm sáng tỏ hoặc
bổ sung nội dung kết luận giám định, cơ
quan trưng cầu giám định có thể hỏi thêm
người giám định về những tình tiết
cần thiết và có thể quyết định giám
định bổ sung hoặc giám định lại.
Điều
158.
Quyền của bị can và những người tham gia
tố tụng đối với kết luận giám
định
1.
Sau khi đã tiến hành giám định, nếu bị can,
những người tham gia tố tụng khác yêu cầu
thì cơ quan đã trưng cầu giám định phải
thông báo cho họ về nội dung kết luận giám
định.
Bị
can, những người tham gia tố tụng khác
được trình bày những ý kiến của mình về
kết luận giám định, yêu cầu giám định
bổ sung hoặc giám định lại. Những việc
này được ghi vào biên bản.
2.
Trong trường hợp Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát không chấp nhận yêu cầu của bị
can, những người tham gia tố tụng khác thì
phải nêu rõ lý do và thông báo cho họ biết.
Điều
159.
Giám định bổ sung hoặc giám định lại
1.
Việc giám định bổ sung được tiến
hành trong trường hợp nội dung kết luận giám
định chưa rõ, chưa đầy đủ hoặc
khi phát sinh những vấn đề mới liên quan
đến những tình tiết của vụ án đã
được kết luận trước đó.
2.
Việc giám định lại được tiến hành
khi có nghi ngờ về kết quả giám định
hoặc có mâu thuẫn trong các kết luận giám
định về cùng một vấn đề cần giám
định. Việc giám định lại phải do
người giám định khác tiến hành.
3.
Việc giám định bổ sung hoặc giám định lại
được tiến hành theo thủ tục chung quy
định tại các điều 155, 156, 157 và 158 của
Bộ luật này.
CHƯƠNG XIV
TẠM ĐÌNH CHỈ ĐIỀU TRA VÀ KẾT THÚC
ĐIỀU TRA
Điều
160.
Tạm đình chỉ điều tra
1.
Khi bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh
hiểm nghèo khác có chứng nhận của Hội
đồng giám định pháp y thì có thể tạm
đình chỉ điều tra trước khi hết
hạn điều tra. Trong trường hợp chưa xác
định được bị can hoặc không biết
rõ bị can đang ở đâu thì chỉ tạm đình
chỉ điều tra khi đã hết thời hạn
điều tra.
Trong trường hợp đã trưng
cầu giám định nhưng chưa có kết quả giám
định mà hết thời hạn điều tra thì
tạm đình chỉ điều tra và việc giám
định vẫn tiếp tục được tiến
hành cho đến khi có kết quả.
Trong
trường hợp vụ án có nhiều bị can mà lý do
tạm đình chỉ điều tra không liên quan
đến tất cả các bị can, thì có thể tạm
đình chỉ điều tra đối với từng
bị can.
Nếu
không biết bị can đang ở đâu thì Cơ quan
điều tra phải ra quyết định truy nã
trước khi tạm đình chỉ điều tra.
2.
Cơ quan điều tra ra quyết định tạm
đình chỉ điều tra phải gửi quyết
định này cho Viện kiểm sát cùng cấp, bị can,
người bị hại.
Điều
161.
Truy nã bị can
Khi
bị can trốn hoặc không biết bị can đang
ở đâu thì Cơ quan điều tra phải ra quyết
định truy nã bị can.
Quyết
định truy nã phải ghi rõ ngày, giờ, tháng, năm,
địa điểm ra quyết định truy nã; họ
tên, chức vụ người ra quyết định;
họ tên, tuổi, nơi cư trú của bị can;
đặc điểm để nhận dạng bị
can, dán ảnh kèm theo, nếu có; tội phạm mà bị can
đã bị khởi tố.
Quyết
định truy nã được thông báo trên các
phương tiện thông tin đại chúng để
mọi người phát hiện, bắt, giữ
người bị truy nã.
Điều
162.
Kết thúc điều tra
1.
Khi kết thúc điều tra, Cơ quan điều tra
phải làm bản kết luận điều tra.
2.
Việc điều tra kết thúc khi Cơ quan điều
tra ra bản kết luận điều tra đề
nghị truy tố hoặc ra bản kết luận
điều tra và quyết định đình chỉ
điều tra.
3.
Bản kết luận điều tra phải ghi rõ ngày,
tháng, năm, họ tên, chức vụ và chữ ký của
người ra kết luận.
4.
Trong thời hạn hai ngày, kể từ ngày ra bản
kết luận điều tra, Cơ quan điều tra
phải gửi bản kết luận điều tra
đề nghị truy tố hoặc bản kết
luận điều tra kèm theo quyết định đình
chỉ điều tra cùng hồ sơ vụ án cho Viện
kiểm sát cùng cấp; gửi bản kết luận
điều tra đề nghị truy tố hoặc
quyết định đình chỉ điều tra cho
bị can, người bào chữa.
Điều
163. Đề
nghị truy tố
1.
Khi có đầy đủ chứng cứ để xác
định có tội phạm và bị can thì Cơ quan
điều tra làm bản kết luận điều tra
đề nghị truy tố. Bản kết luận
điều tra trình bày diễn biến hành vi phạm
tội, nêu rõ các chứng cứ chứng minh tội
phạm, những ý kiến đề xuất giải
quyết vụ án, có nêu rõ lý do và căn cứ đề
nghị truy tố.
2.
Kèm theo bản kết luận điều tra có bản kê
về thời hạn điều tra, biện pháp ngăn
chặn đã được áp dụng có ghi rõ thời gian
tạm giữ, tạm giam, vật chứng, việc
kiện dân sự, biện pháp để bảo đảm
việc phạt tiền, bồi thường và tịch thu
tài sản, nếu có.
Điều
164. Đình
chỉ điều tra
1.
Trong trường hợp đình chỉ điều tra,
bản kết luận điều tra nêu rõ quá trình
điều tra, lý do và căn cứ đình chỉ
điều tra.
2.
Cơ quan điều tra ra quyết định đình
chỉ điều tra trong những trường hợp sau
đây:
a) Có một trong những căn cứ quy
định tại khoản 2 Điều 105 và Điều
107 của Bộ luật này hoặc tại Điều 19,
Điều 25 và khoản 2 Điều 69 của Bộ
luật hình sự;
b)
Đã hết thời hạn điều tra mà không chứng
minh được bị can đã thực hiện tội
phạm.
3.
Quyết định đình chỉ điều tra ghi rõ
thời gian, địa điểm ra quyết định,
lý do và căn cứ đình chỉ điều tra, việc
hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, trả lại
đồ vật, tài liệu đã tạm giữ, nếu
có và những vấn đề khác có liên quan.
Nếu
trong một vụ án có nhiều bị can mà căn cứ
để đình chỉ điều tra không liên quan
đến tất cả các bị can, thì có thể đình
chỉ điều tra đối với từng bị can.
4.
Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ
ngày nhận được quyết định đình
chỉ điều tra của Cơ quan điều tra,
nếu thấy quyết định đình chỉ
điều tra có căn cứ thì Viện kiểm sát
phải trả lại hồ sơ vụ án cho Cơ quan
điều tra để giải quyết theo thẩm
quyền; nếu thấy quyết định đình
chỉ điều tra không có căn cứ thì huỷ bỏ
quyết định đình chỉ điều tra và yêu
cầu Cơ quan điều tra phục hồi điều
tra; nếu thấy đủ căn cứ để truy
tố thì huỷ bỏ quyết định đình chỉ
điều tra và ra quyết định truy tố. Thời
hạn ra quyết định truy tố được
thực hiện theo quy định tại Điều 166
của Bộ luật này.
Điều
165.
Phục hồi điều tra
1.
Khi có lý do để hủy bỏ quyết định
đình chỉ hoặc quyết định tạm đình
chỉ điều tra thì Cơ quan điều tra ra
quyết định phục hồi điều tra, nếu
chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình
sự. Trong thời hạn hai ngày, kể từ ngày ra
quyết định phục hồi điều tra, cơ
quan điều tra phải gửi quyết định này
cho Viện kiểm sát cùng cấp.
2.
Nếu việc điều tra bị đình chỉ theo quy
định tại điểm 5 và điểm 6
Điều 107 của Bộ luật này mà bị can không
đồng ý và yêu cầu điều tra lại thì Cơ
quan điều tra hoặc Viện kiểm sát cùng cấp ra
quyết định phục hồi điều tra.
CHƯƠNG XV
QUYẾT ĐỊNH VIỆC TRUY TỐ
Điều
166.
Thời hạn quyết định truy tố
1.
Trong thời hạn hai mươi ngày đối với
tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm
trọng, ba mươi ngày đối với tội
phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng, kể từ ngày nhận
được hồ sơ vụ án và bản kết
luận điều tra, Viện kiểm sát phải ra
một trong những quyết định sau đây:
a)
Truy tố bị can trước Tòa án bằng bản cáo
trạng;
b)
Trả hồ sơ để điều tra bổ sung;
c)
Đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.
Trong
trường hợp cần thiết, Viện trưởng
Viện kiểm sát có thể gia hạn, nhưng không quá
mười ngày đối với tội phạm ít nghiêm
trọng và tội phạm nghiêm trọng; không quá
mười lăm ngày đối với tội phạm
rất nghiêm trọng; không quá ba mươi ngày đối
với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Trong
thời hạn ba ngày, kể từ ngày ra một trong
những quyết định nêu trên, Viện kiểm sát
phải thông báo cho bị can, người bào chữa
biết; giao bản cáo trạng, quyết định
đình chỉ vụ án hoặc quyết định
tạm đình chỉ vụ án cho bị can. Người
bào chữa được đọc bản cáo trạng,
ghi chép, sao chụp những tài liệu trong hồ sơ
vụ án liên quan đến việc bào chữa theo quy
định của pháp luật và đề xuất yêu
cầu.
2. Sau khi nhận hồ sơ vụ án,
Viện kiểm sát có quyền quyết định việc
áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện
pháp ngăn chặn; yêu cầu Cơ quan điều tra truy
nã bị can. Thời hạn tạm giam không được
quá thời hạn quy định tại khoản 1
Điều này.
3.
Trong trường hợp truy tố thì trong thời hạn
ba ngày, kể từ ngày ra quyết định truy tố
bằng bản cáo trạng, Viện kiểm sát phải
gửi hồ sơ và bản cáo trạng đến Tòa án.
4.
Trong trường hợp vụ án không thuộc thẩm
quyền truy tố của mình, Viện kiểm sát ra ngay
quyết định chuyển vụ án cho Viện kiểm
sát có thẩm quyền.
Điều
167.
Bản cáo trạng
1.
Nội dung bản cáo trạng phải ghi rõ ngày, giờ,
tháng, năm, địa điểm xảy ra tội
phạm; thủ đoạn, mục đích, động
cơ phạm tội, hậu quả của tội
phạm và những tình tiết quan trọng khác; những
chứng cứ xác định tội trạng của
bị can, những tình tiết tăng nặng và tình
tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; nhân thân
của bị can và mọi tình tiết khác có ý nghĩa
đối với vụ án.
Phần
kết luận của bản cáo trạng ghi rõ tội danh
và điều khoản của Bộ luật hình sự
được áp dụng.
2.
Bản cáo trạng phải ghi rõ ngày, tháng, năm lập cáo
trạng; họ tên, chức vụ và chữ ký của
người ra bản cáo trạng.
Điều
168.
Trả hồ sơ để điều tra bổ sung
Viện
kiểm sát ra quyết định trả hồ sơ cho
Cơ quan điều tra để điều tra bổ
sung khi nghiên cứu hồ sơ vụ án phát hiện
thấy:
1.
Còn thiếu những chứng cứ quan trọng
đối với vụ án mà Viện kiểm sát không
thể tự mình bổ sung được;
2.
Có căn cứ để khởi tố bị can về
một tội phạm khác hoặc có người
đồng phạm khác;
3.
Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Những
vấn đề cần được điều tra
bổ sung phải được nêu rõ trong quyết
định yêu cầu điều tra bổ sung.
Điều
169.
Đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án
1.
Viện kiểm sát ra quyết định đình chỉ
vụ án khi có một trong những căn cứ quy
định tại khoản 2 Điều 105 và Điều
107 của Bộ luật này hoặc tại Điều 19,
Điều 25 và khoản 2 Điều 69 của Bộ
luật hình sự.
2.
Viện kiểm sát quyết định tạm đình
chỉ vụ án trong những trường hợp sau
đây:
a)
Khi bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh
hiểm nghèo khác mà có chứng nhận của Hội
đồng giám định pháp y;
b)
Khi bị can bỏ trốn mà không biết rõ bị can
đang ở đâu; trong trường hợp này phải
yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can.
3.
Trong trường hợp vụ án có nhiều bị can mà
căn cứ để đình chỉ hoặc tạm
đình chỉ vụ án không liên quan đến tất
cả các bị can, thì có thể đình chỉ hoặc
tạm đình chỉ vụ án đối với từng
bị can.
4.
Trong trường hợp quyết định đình
chỉ vụ án của Viện kiểm sát cấp
dưới không có căn cứ và trái pháp luật, thì
Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên có quyền huỷ bỏ quyết
định đó và yêu cầu Viện kiểm sát cấp
dưới ra quyết định truy tố.
PHẦN THỨ BA
XÉT XỬ SƠ THẨM
CHƯƠNG XVI
THẨM QUYỀN CỦA TOÀ ÁN CÁC CẤP
Điều
170.
Thẩm quyền xét xử của Tòa án các cấp
1.
Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực xét
xử sơ thẩm những vụ án hình sự về
những tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm
nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng,
trừ những tội phạm sau đây :
a)
Các tội xâm phạm an ninh quốc gia;
b)
Các tội phá hoại hoà bình, chống loài người và
tội phạm chiến tranh;
c)
Các tội quy định tại các điều 93, 95, 96,
172, 216, 217, 218, 219, 221, 222, 223, 224, 225, 226, 263, 293, 294, 295, 296,
322 và 323 của Bộ luật hình sự.
2.
Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án quân sự cấp quân khu
xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về
những tội phạm không thuộc thẩm quyền
của Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu
vực hoặc những vụ án thuộc thẩm quyền
của Tòa án cấp dưới mà mình lấy lên để
xét xử.
Điều
171.
Thẩm quyền theo lãnh thổ
1.
Tòa án có thẩm quyền xét xử vụ án hình sự là Tòa
án nơi tội phạm được thực hiện.
Trong trường hợp tội phạm được
thực hiện tại nhiều nơi khác nhau hoặc không
xác định được nơi thực hiện
tội phạm thì Tòa án có thẩm quyền xét xử là Tòa
án nơi kết thúc việc điều tra.
2.
Bị cáo phạm tội ở nước ngoài nếu xét
xử ở Việt Nam thì do Tòa án nhân dân cấp tỉnh
nơi cư trú cuối cùng của bị cáo ở trong
nước xét xử. Nếu không xác định
được nơi cư trú cuối cùng ở trong
nước của bị cáo thì tùy trường hợp,
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ra quyết định giao cho
Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội hoặc Tòa án nhân dân thành
phố Hồ Chí Minh xét xử.
Bị
cáo phạm tội ở nước ngoài, nếu thuộc
thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự thì do Tòa
án quân sự cấp quân khu trở lên xét xử theo quyết
định của Chánh án Tòa án quân sự trung ương.
Điều
172.
Thẩm quyền xét xử những tội phạm xảy
ra trên tàu bay hoặc tàu biển của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đang hoạt
động ngoài không phận hoặc lãnh hải của
Việt Nam
Những
tội phạm xảy ra trên tàu bay hoặc tàu biển
của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam đang hoạt động ngoài không phận
hoặc lãnh hải Việt Nam thuộc thẩm quyền xét
xử của Tòa án Việt Nam, nơi có sân bay hoặc
bến cảng trở về đầu tiên hoặc nơi
tàu bay, tàu biển đó được đăng ký.
Điều
173.
Việc xét xử bị cáo phạm nhiều tội
thuộc thẩm quyền của các Tòa án khác cấp
Khi
bị cáo phạm nhiều tội, trong đó có tội
phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án
cấp trên, thì Tòa án cấp trên xét xử toàn bộ vụ
án.
Điều
174.
Chuyển vụ án
Khi
thấy vụ án không thuộc thẩm quyền của mình
thì Tòa án chuyển vụ án cho Tòa án có thẩm quyền xét
xử. Việc chuyển vụ án cho Tòa án ngoài phạm vi
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
hoặc ngoài phạm vi quân khu do Tòa án nhân dân cấp
tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu quyết
định.
Chỉ
được chuyển vụ án cho Tòa án khác khi vụ án
chưa được xét xử. Trong trường hợp
này, việc chuyển vụ án do Chánh án Tòa án quyết
định. Nếu vụ án thuộc thẩm quyền
của Tòa án quân sự hoặc Tòa án cấp trên thì vụ án
đã được đưa ra xét xử vẫn phải
chuyển cho Tòa án có thẩm quyền. Trong trường
hợp này, việc chuyển vụ án do Hội đồng
xét xử quyết định.
Trong
thời hạn hai ngày, kể từ ngày ra quyết định
chuyển vụ án, Tòa án phải thông báo cho Viện kiểm
sát cùng cấp, báo cho bị cáo và những người có
liên quan trong vụ án.
Điều
175.
Giải quyết việc tranh chấp về thẩm
quyền xét xử
1.
Việc giải quyết tranh chấp về thẩm
quyền xét xử do Chánh án Tòa án cấp trên trực
tiếp quyết định.
2.
Việc giải quyết tranh chấp về thẩm
quyền xét xử giữa các Tòa án nhân dân cấp huyện
thuộc các tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương khác nhau, do Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh
nơi kết thúc việc điều tra quyết
định.
3.
Việc giải quyết tranh chấp về thẩm
quyền xét xử giữa Toà án nhân dân và Tòa án quân sự do
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định.
CHƯƠNG XVII
CHUẨN BỊ XÉT XỬ
Điều
176.
Thời hạn chuẩn bị xét xử
1. Sau khi nhận hồ sơ vụ án,
Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa có
nhiệm vụ nghiên cứu hồ sơ; giải quyết
các khiếu nại và yêu cầu của những
người tham gia tố tụng và tiến hành những
việc khác cần thiết cho việc mở phiên tòa.
2.
Trong thời hạn ba mươi ngày đối với
tội phạm ít nghiêm trọng, bốn mươi lăm
ngày đối với tội phạm nghiêm trọng, hai
tháng đối với tội phạm rất nghiêm
trọng, ba tháng đối với tội phạm
đặc biệt nghiêm trọng, kể từ ngày nhận
hồ sơ vụ án, Thẩm phán được phân công
chủ tọa phiên tòa phải ra một trong những
quyết định sau đây:
a)
Đưa vụ án ra xét xử ;
b)
Trả hồ sơ để điều tra bổ sung;
c)
Đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.
Đối
với những vụ án phức tạp, Chánh án Tòa án có
thể quyết định gia hạn thời hạn
chuẩn bị xét xử, nhưng không quá mười
lăm ngày đối với tội phạm ít nghiêm
trọng và tội phạm nghiêm trọng, không quá ba
mươi ngày đối với tội phạm rất
nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng. Việc gia hạn thời hạn chuẩn bị
xét xử phải được thông báo ngay cho Viện
kiểm sát cùng cấp.
Trong
thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày có
quyết định đưa vụ án ra xét xử, Toà án
phải mở phiên toà; trong trường hợp có lý do chính
đáng thì Toà án có thể mở phiên toà trong thời hạn
ba mươi ngày.
Đối
với vụ án được trả lại để
điều tra bổ sung thì trong thời hạn
mười lăm ngày sau khi nhận lại hồ sơ,
Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa
phải ra quyết định đưa vụ án ra xét
xử.
Điều
177.
Áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện
pháp ngăn chặn
Sau
khi nhận hồ sơ vụ án, Thẩm phán
được phân công chủ toạ phiên toà có quyền
quyết định việc áp dụng, thay đổi
hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, trừ
việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ
biện pháp tạm giam do Chánh án hoặc Phó Chánh án Tòa án
quyết định.
Thời
hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử không
được quá thời hạn chuẩn bị xét xử
quy định tại Điều 176 của Bộ luật
này.
Đối
với bị cáo đang bị tạm giam mà đến ngày
mở phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết,
nếu xét thấy cần tiếp tục tạm giam
để hoàn thành việc xét xử, thì Tòa án ra lệnh
tạm giam cho đến khi kết thúc phiên tòa.
Điều
178.
Nội dung của quyết định đưa vụ án
ra xét xử
Quyết
định đưa vụ án ra xét xử phải ghi rõ:
1. Họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi
sinh, nghề nghiệp, nơi cư trú của bị cáo;
2.
Tội danh và điều khoản của Bộ luật
hình sự mà Viện kiểm sát áp dụng đối
với hành vi của bị cáo;
3.
Ngày, giờ, tháng, năm, địa điểm mở phiên
tòa;
4.
Xử công khai hay xử kín;
5.
Họ tên Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án;
họ tên Thẩm phán dự khuyết, Hội thẩm
dự khuyết, nếu có;
6.
Họ tên Kiểm sát viên tham gia phiên toà; họ tên Kiểm
sát viên dự khuyết, nếu có;
7.
Họ tên người bào chữa, nếu có;
8.
Họ tên người phiên dịch, nếu có;
9.
Họ tên những người được triệu
tập để xét hỏi tại phiên toà;
10.
Vật chứng cần đưa ra xem xét tại phiên toà.
Điều
179.
Quyết định trả hồ sơ để
điều tra bổ sung
1.
Thẩm phán ra quyết định trả hồ sơ cho
Viện kiểm sát để điều tra bổ sung trong
những trường hợp sau đây:
a)
Khi cần xem xét thêm những chứng cứ quan trọng
đối với vụ án mà không thể bổ sung tại
phiên tòa được;
b)
Khi có căn cứ để cho rằng bị cáo phạm
một tội khác hoặc có đồng phạm khác;
c)
Khi phát hiện có vi phạm nghiêm trọng thủ tục
tố tụng.
Những
vấn đề cần điều tra bổ sung phải
được nêu rõ trong quyết định yêu cầu
điều tra bổ sung.
2.
Nếu kết quả điều tra bổ sung dẫn
tới việc đình chỉ vụ án thì Viện kiểm
sát ra quyết định đình chỉ vụ án và thông báo
cho Tòa án biết.
Trong
trường hợp Viện kiểm sát không bổ sung
được những vấn đề mà Tòa án yêu
cầu bổ sung và vẫn giữ nguyên quyết
định truy tố thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử
vụ án.
Điều
180.
Quyết định tạm đình chỉ hoặc đình
chỉ vụ án
Thẩm
phán ra quyết định tạm đình chỉ vụ án
khi có căn cứ quy định tại Điều 160
của Bộ luật này; ra quyết định đình
chỉ vụ án khi có một trong những căn cứ quy
định tại khoản 2 Điều 105 và các
điểm 3, 4, 5, 6 và 7 Điều 107 của Bộ
luật này hoặc khi Viện kiểm sát rút toàn bộ
quyết định truy tố trước khi mở phiên
toà.
Trong
trường hợp vụ án có nhiều bị can, bị
cáo mà căn cứ để tạm đình chỉ hoặc
đình chỉ vụ án không liên quan đến tất
cả các bị can, bị cáo thì có thể tạm đình
chỉ hoặc đình chỉ vụ án đối với
từng bị can, bị cáo.
Quyết
định đình chỉ vụ án phải ghi rõ nội
dung theo quy định tại khoản 3 Điều 164
của Bộ luật này.
Điều
181.
Viện kiểm sát rút quyết định truy tố
Nếu
xét thấy có một trong những căn cứ quy
định tại Điều 107 của Bộ luật này
hoặc có căn cứ để miễn trách nhiệm hình
sự cho bị can, bị cáo theo quy định tại
Điều 19, Điều 25 và khoản 2 Điều 69
của Bộ luật hình sự, thì Viện kiểm sát rút
quyết định truy tố trước khi mở phiên
tòa và đề nghị Tòa án đình chỉ vụ án.
Điều
182.
Việc giao các quyết định của Tòa án
1. Quyết định đưa vụ án
ra xét xử phải được giao cho bị cáo,
người đại diện hợp pháp của họ và
người bào chữa, chậm nhất là mười ngày
trước khi mở phiên tòa.
Trong
trường hợp xét xử vắng mặt bị cáo thì
quyết định đưa vụ án ra xét xử và
bản cáo trạng được giao cho người bào
chữa hoặc người đại diện hợp pháp
của bị cáo; quyết định đưa vụ án
ra xét xử còn phải được niêm yết tại trụ
sở chính quyền xã, phường, thị trấn nơi
cư trú hoặc nơi làm việc cuối cùng của
bị cáo.
2.
Quyết định tạm đình chỉ hoặc
quyết định đình chỉ vụ án của Tòa án
phải được giao cho bị can, bị cáo,
người bào chữa, người bị hại,
người đại diện hợp pháp của bị
can, bị cáo; những người khác tham tố tụng
thì được gửi giấy báo.
3.
Quyết định đưa vụ án ra xét xử,
quyết định đình chỉ, quyết định
tạm đình chỉ vụ án phải được
gửi ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp.
4.
Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc
hủy bỏ biện pháp ngăn chặn phải
được gửi ngay cho bị can, bị cáo, Viện
kiểm sát cùng cấp, trại tạm giam nơi bị can,
bị cáo đang bị tạm giam.
Điều
183.
Triệu tập những người cần xét hỏi
đến phiên tòa
Căn
cứ vào quyết định đưa vụ án ra xét
xử, Thẩm phán triệu tập những người
cần xét hỏi đến phiên tòa.
CHƯƠNG XVIII
QUY ĐỊNH CHUNG VỀ THỦ TỤC TỐ TỤNG
TẠI PHIÊN TÒA
Điều
184.
Xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục
1.
Tòa án phải trực tiếp xác định những tình
tiết của vụ án bằng cách hỏi và nghe ý kiến
của bị cáo, người bị hại, nguyên
đơn dân sự, bị đơn dân sự,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
đến vụ án hoặc người đại
diện hợp pháp của họ, người làm chứng,
người giám định, xem xét vật chứng và nghe ý
kiến của Kiểm sát viên, người bào chữa,
người bảo vệ quyền lợi của
đương sự. Bản án chỉ được
căn cứ vào những chứng cứ đã
được xem xét tại phiên tòa.
2.
Việc xét xử phải tiến hành liên tục, trừ
thời gian nghỉ.
Điều
185.
Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm
Hội
đồng xét xử sơ thẩm gồm một Thẩm
phán và hai Hội thẩm. Trong trường hợp vụ án
có tính chất nghiêm trọng, phức tạp, thì Hội
đồng xét xử có thể gồm hai Thẩm phán và ba
Hội thẩm.
Đối
với vụ án mà bị cáo bị đưa ra xét xử
về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là
tử hình thì Hội đồng xét xử gồm hai
Thẩm phán và ba Hội thẩm.
Thẩm
phán chủ tọa phiên tòa điều khiển việc xét
xử tại phiên tòa và giữ kỷ luật phiên tòa.
Điều
186. Thay thế thành viên của Hội
đồng xét xử trong trường hợp đặc
biệt
1.
Các thành viên của Hội đồng xét xử phải xét
xử vụ án từ khi bắt đầu cho đến
khi kết thúc.
2.
Trong quá trình xét xử, nếu có Thẩm phán, Hội
thẩm không tiếp tục tham gia xét xử
được thì Tòa án vẫn có thể xét xử vụ án
nếu có Thẩm phán, Hội thẩm dự khuyết.
Thẩm phán hoặc Hội thẩm dự khuyết
phải có mặt tại phiên tòa từ đầu thì
mới được tham gia xét xử. Trong trường
hợp Hội đồng xét xử có hai Thẩm phán mà
Thẩm phán chủ toạ phiên toà không tiếp tục tham
gia xét xử được thì Thẩm phán là thành viên
Hội đồng xét xử làm chủ toạ phiên toà và
Thẩm phán dự khuyết được bổ sung làm
thành viên Hội đồng xét xử.
3.
Trong trường hợp không có Thẩm phán, Hội
thẩm dự khuyết để thay thế hoặc
phải thay đổi chủ toạ phiên toà mà không có
Thẩm phán để thay thế theo quy định tại
khoản 2 Điều này thì vụ án phải
được xét xử lại từ đầu.
Điều
187.
Sự có mặt của bị cáo tại phiên tòa
1.
Bị cáo phải có mặt tại phiên tòa theo giấy
triệu tập của Tòa án; nếu vắng mặt không có
lý do chính đáng thì bị áp giải theo thủ tục quy
định tại Điều 130 của Bộ luật
này; nếu bị cáo vắng mặt có lý do chính đáng thì
phải hoãn phiên tòa.
Nếu
bị cáo bị bệnh tâm thần hoặc bị bệnh
hiểm nghèo khác thì Hội đồng xét xử tạm
đình chỉ vụ án cho đến khi bị cáo khỏi
bệnh.
Nếu
bị cáo trốn tránh thì Hội đồng xét xử
tạm đình chỉ vụ án và yêu cầu Cơ quan
điều tra truy nã bị cáo.
2.
Tòa án chỉ có thể xử vắng mặt bị cáo trong
những trường hợp sau đây:
a)
Bị cáo trốn tránh và việc truy nã không có kết
quả;
b)
Bị cáo đang ở nước ngoài và không thể
triệu tập đến phiên tòa;
c)
Nếu sự vắng mặt của bị cáo không trở
ngại cho việc xét xử và họ đã được
giao giấy triệu tập hợp lệ.
Điều
188.
Giám sát bị cáo tại phiên tòa
1.
Bị cáo đang bị tạm giam khi ra phiên tòa chỉ
được tiếp xúc với người bào chữa.
Việc tiếp xúc với những người khác
phải được phép của chủ tọa phiên tòa.
2.
Bị cáo không bị tạm giam phải có mặt tại
phiên tòa trong suốt thời gian xét xử vụ án.
Điều
189.
Sự có mặt của Kiểm sát viên
1.
Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp phải tham
gia phiên tòa. Đối với vụ án có tính chất nghiêm
trọng, phức tạp thì hai Kiểm sát viên có thể cùng
tham gia phiên tòa. Trong trường hợp cần thiết có
thể có Kiểm sát viên dự khuyết.
2.
Nếu Kiểm sát viên vắng mặt, bị thay
đổi mà không có Kiểm sát viên dự khuyết
để thay thế thì Hội đồng xét xử hoãn
phiên tòa và báo ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp.
Điều
190.
Sự có mặt của người bào chữa
Người
bào chữa có nghĩa vụ tham gia phiên tòa. Người bào
chữa có thể gửi trước bản bào chữa cho
Tòa án. Nếu người bào chữa vắng mặt Tòa án vẫn
mở phiên tòa xét xử.
Trong
trường hợp bắt buộc phải có người
bào chữa theo quy định tại khoản 2 Điều
57 của Bộ luật này mà người bào chữa
vắng mặt, thì Hội đồng xét xử phải
hoãn phiên tòa.
Điều
191. Sự
có mặt của người bị hại, nguyên
đơn dân sự, bị đơn dân sự,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
đến vụ án hoặc người đại
diện hợp pháp của họ
1. Nếu người bị hại, nguyên
đơn dân sự, bị đơn dân sự,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
đến vụ án hoặc người đại
diện hợp pháp của họ vắng mặt thì tùy
trường hợp, Hội đồng xét xử quyết
định hoãn phiên tòa hoặc vẫn tiến hành xét
xử.
2.
Nếu thấy sự vắng mặt của người
bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn
dân sự chỉ trở ngại cho việc giải
quyết vấn đề bồi thường thì Hội
đồng xét xử có thể tách việc bồi
thường để xét xử sau theo thủ tục
tố tụng dân sự.
Điều
192.
Sự có mặt của người làm chứng
Người
làm chứng tham gia phiên tòa để làm sáng tỏ các tình
tiết của vụ án. Nếu người làm chứng
vắng mặt nhưng trước đó đã có lời
khai ở Cơ quan điều tra thì chủ tọa phiên tòa
công bố những lời khai đó. Nếu người
làm chứng về những vấn đề quan trọng
vắng mặt thì tùy trường hợp, Hội
đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa
hoặc vẫn tiến hành xét xử.
Trong
trường hợp người làm chứng
được Toà án triệu tập nhưng cố ý không
đến mà không có lý do chính đáng và việc vắng
mặt của họ gây trở ngại cho việc xét
xử thì Hội đồng xét xử có thể ra quyết
định dẫn giải. Thủ tục dẫn giải
người làm chứng được thực hiện
theo quy định tại Điều 134 của Bộ
luật này.
Điều
193.
Sự có mặt của người giám định
1.
Người giám định tham gia phiên tòa khi
được Tòa án triệu tập.
2.
Nếu người giám định vắng mặt thì tùy
trường hợp, Hội đồng xét xử quyết
định hoãn phiên tòa hoặc vẫn tiến hành xét
xử.
Điều
194.
Thời hạn hoãn phiên tòa
Trong
trường hợp phải hoãn phiên tòa theo quy định
tại các điều 45, 46, 47, 187, 189, 190, 191, 192 và 193
của Bộ luật này, thì thời hạn hoãn phiên tòa
sơ thẩm không được quá ba mươi ngày, kể
từ ngày ra quyết định hoãn phiên tòa.
Điều
195.
Kiểm sát viên rút quyết định truy tố hoặc
kết luận về tội nhẹ hơn tại phiên toà
Tại
phiên tòa, sau khi xét hỏi, Kiểm sát viên có thể rút
một phần hay toàn bộ quyết định truy
tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn,
nhưng Hội đồng xét xử vẫn phải xét
xử toàn bộ vụ án.
Điều
196.
Giới hạn của việc xét xử
Tòa
án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo
tội danh mà Viện kiểm sát truy tố và Tòa án đã
quyết định đưa ra xét xử.
Toà
án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với
khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố trong cùng
một điều luật hoặc về một tội
khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện
kiểm sát đã truy tố.
Điều
197.
Nội quy phiên tòa
1. Trước khi bắt đầu phiên
tòa, Thư ký Tòa án phải phổ biến nội quy phiên
tòa.
2.
Mọi người ở trong phòng xử án đều
phải có thái độ tôn trọng Hội đồng xét
xử, giữ gìn trật tự và tuân theo sự
điều khiển của chủ tọa phiên tòa.
3.
Mọi người ở trong phòng xử án đều
phải đứng dậy khi Hội đồng xét xử
vào phòng xử án. Những người được Tòa án
triệu tập để xét hỏi được trình
bày ý kiến và người nào muốn trình bày phải
được chủ tọa phiên tòa cho phép. Người
trình bày ý kiến phải đứng khi được
hỏi, trừ trường hợp vì lý do sức khỏe
được chủ tọa phiên tòa cho phép ngồi để
trình bày.
4.
Những người dưới 16 tuổi không
được vào phòng xử án, trừ trường
hợp được Tòa án triệu tập để xét
hỏi.
Điều
198.
Những biện pháp đối với người vi
phạm trật tự phiên tòa
Những
người vi phạm trật tự phiên tòa thì tùy
trường hợp, có thể bị chủ tọa phiên
tòa cảnh cáo, phạt tiền, buộc rời khỏi
phòng xử án hoặc bị bắt giữ.
Người
bảo vệ phiên tòa có nhiệm vụ bảo vệ
trật tự phiên tòa và thi hành lệnh của chủ
tọa phiên tòa về việc buộc rời khỏi phòng
xử án hoặc bắt giữ người gây rối
trật tự tại phiên tòa.
Điều
199.
Việc ra bản án và các quyết định của Tòa án
1.
Bản án của Tòa án quyết định việc bị
cáo có phạm tội hay không phạm tội, hình phạt và
các biện pháp tư pháp khác. Bản án phải
được thảo luận và thông qua tại phòng
nghị án.
2.
Quyết định về việc thay đổi thành viên
của Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, Thư
ký Tòa án, người giám định, người phiên
dịch, chuyển vụ án, yêu cầu điều tra
bổ sung, tạm đình chỉ hoặc đình chỉ
vụ án và về việc bắt giam hoặc trả tự
do cho bị cáo phải được thảo luận và
thông qua tại phòng nghị án và phải được
lập thành văn bản.
3.
Quyết định về các vấn đề khác
được Hội đồng xét xử thảo
luận và thông qua tại phòng xử án, không phải lập
thành văn bản, nhưng phải được ghi vào
biên bản phiên tòa.
Điều
200.
Biên bản phiên tòa
1.
Biên bản phiên tòa phải ghi rõ ngày, giờ, tháng, năm,
địa điểm của phiên tòa và mọi diễn
biến ở phiên tòa từ khi bắt đầu cho
đến khi tuyên án. Cùng với việc ghi biên bản, có
thể ghi âm, ghi hình về diễn biến phiên tòa.
2.
Những câu hỏi và những câu trả lời đều
phải được ghi vào biên bản.
3.
Sau khi kết thúc phiên tòa, chủ tọa phiên tòa phải
kiểm tra biên bản và cùng với Thư ký Tòa án ký vào biên
bản đó.
4.
Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa,
người bị hại, nguyên đơn dân sự,
bị đơn dân sự, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người
bảo vệ quyền lợi của đương
sự hoặc đại diện hợp pháp của
những người đó được xem biên bản
phiên tòa, có quyền yêu cầu ghi những sửa
đổi, bổ sung vào biên bản phiên tòa và ký xác
nhận.
CHƯƠNG XIX
THỦ TỤC BẮT ĐẦU PHIÊN TÒA
Điều
201.
Thủ tục bắt đầu phiên tòa
Khi
bắt đầu phiên tòa, chủ tọa phiên tòa
đọc quyết định đưa vụ án ra xét
xử.
Sau
khi nghe Thư ký Tòa án báo cáo danh sách những người
được triệu tập đã có mặt, chủ
tọa phiên tòa kiểm tra căn cước của
những người đó và giải thích cho họ
biết quyền và nghĩa vụ của họ tại
phiên tòa.
Trong
trường hợp bị cáo chưa được giao
nhận bản cáo trạng theo quy định tại
khoản 2 Điều 49 và quyết định đưa
vụ án ra xét xử trong thời hạn quy định
tại khoản 1 Điều 182 của Bộ luật này
và nếu bị cáo yêu cầu thì Hội đồng xét
xử phải hoãn phiên tòa.
Điều
202.
Giải quyết việc đề nghị thay đổi
Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, Thư ký Tòa án,
người giám định, người phiên dịch
Kiểm
sát viên và những người tham gia tố tụng
phải được chủ toạ phiên toà hỏi xem
họ có đề nghị thay đổi Thẩm phán,
Hội thẩm, Kiểm sát viên, Thư ký Tòa án, người
giám định, người phiên dịch hay không. Nếu có
người yêu cầu thì Hội đồng xét xử xem
xét và quyết định.
Điều
203.
Giải thích quyền và nghĩa vụ của người
phiên dịch, người giám định
Nếu
có người phiên dịch, người giám định
tham gia phiên tòa thì chủ tọa phiên tòa giới thiệu
họ tên, nghề nghiệp hoặc chức vụ của
những người đó và giải thích rõ những
quyền và nghĩa vụ của họ. Những
người này phải cam đoan làm tròn nhiệm vụ.
Điều
204. Giải
thích quyền, nghĩa vụ và cách ly người làm
chứng
1.
Sau khi đã hỏi họ tên, tuổi, nghề nghiệp,
nơi cư trú của từng người làm chứng,
chủ tọa phiên tòa giải thích rõ quyền và nghĩa
vụ tố tụng của họ. Người làm
chứng phải cam đoan không khai gian dối. Riêng
người làm chứng chưa thành niên không phải cam
đoan.
2. Trước khi người làm chứng
được hỏi về vụ án, chủ tọa phiên
tòa có thể quyết định những biện pháp
để cho những người làm chứng không nghe
được lời khai của nhau hoặc tiếp xúc
với những người có liên quan. Trong trường
hợp lời khai của bị cáo và người làm
chứng có ảnh hưởng lẫn nhau thì chủ
tọa phiên tòa có thể quyết định cách ly bị
cáo với người làm chứng trước khi hỏi
người làm chứng.
Điều
205.
Giải quyết những yêu cầu về xem xét chứng
cứ và hoãn phiên tòa khi có người vắng mặt
Chủ
tọa phiên tòa phải hỏi Kiểm sát viên và những
người tham gia tố tụng xem ai có yêu cầu
triệu tập thêm người làm chứng hoặc yêu
cầu đưa thêm vật chứng và tài liệu ra xem xét
hay không. Nếu có người tham gia tố tụng
vắng mặt thì chủ tọa phiên tòa cũng phải
hỏi xem có ai yêu cầu hoãn phiên tòa hay không. Nếu có
người yêu cầu thì Hội đồng xét xử xem
xét và quyết định.
CHƯƠNG XX
THỦ TỤC XÉT HỎI TẠI PHIÊN TÒA
Điều
206.
Đọc bản cáo trạng
Trước
khi tiến hành xét hỏi, Kiểm sát viên đọc bản
cáo trạng và trình bày ý kiến bổ sung, nếu có.
Điều
207.
Trình tự xét hỏi
1.
Hội đồng xét xử phải xác định
đầy đủ các tình tiết về từng sự
việc và về từng tội của vụ án theo
thứ tự xét hỏi hợp lý.
2.
Khi xét hỏi từng người, chủ tọa phiên tòa
hỏi trước rồi đến các Hội thẩm,
sau đó đến Kiểm sát viên, người bào
chữa, người bảo vệ quyền lợi của
đương sự. Những người tham gia phiên tòa
cũng có quyền đề nghị với chủ tọa
phiên tòa hỏi thêm về những tình tiết cần làm
sáng tỏ. Người giám định được
hỏi về những vấn đề có liên quan
đến việc giám định.
3.
Khi xét hỏi, Hội đồng xét xử xem xét những
vật chứng có liên quan trong vụ án.
Điều
208.
Công bố những lời khai tại Cơ quan điều
tra
1.
Nếu người được xét hỏi có mặt
tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử và Kiểm
sát viên không được nhắc hoặc công bố
lời khai của họ tại Cơ quan điều tra
trước khi họ khai tại phiên tòa về những
tình tiết của vụ án.
2.
Chỉ được công bố những lời khai
tại Cơ quan điều tra trong những trường
hợp sau đây:
a)
Lời khai của người được xét hỏi
tại phiên tòa có mâu thuẫn với lời khai của
họ tại Cơ quan điều tra;
b)
Người được xét hỏi không khai tại phiên
tòa;
c)
Người được xét hỏi vắng mặt
hoặc đã chết.
Điều
209. Hỏi
bị cáo
1.
Hội đồng xét xử phải hỏi riêng từng
bị cáo. Nếu lời khai của bị cáo này có thể
ảnh hưởng đến lời khai của bị cáo
khác thì chủ tọa phiên tòa phải cách ly họ. Trong
trường hợp này, bị cáo bị cách ly
được thông báo lại nội dung lời khai
của bị cáo trước và có quyền đặt câu
hỏi đối với bị cáo đó.
2.
Bị cáo trình bày ý kiến về bản cáo trạng và
những tình tiết của vụ án. Hội đồng
xét xử hỏi thêm về những điểm mà bị
cáo trình bày chưa đầy đủ hoặc có mâu
thuẫn.
3.
Kiểm sát viên hỏi về những tình tiết của
vụ án liên quan đến việc buộc tội, gỡ
tội bị cáo. Người bào chữa hỏi về
những tình tiết liên quan đến việc bào chữa,
người bảo vệ quyền lợi của
đương sự hỏi về những tình tiết
liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi
của đương sự. Những người tham gia
phiên toà có quyền đề nghị với chủ toạ
phiên toà hỏi thêm về những tình tiết liên quan
đến họ.
4.
Nếu bị cáo không trả lời các câu hỏi thì
Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, người
bào chữa, người bảo vệ quyền lợi
của đương sự tiếp tục hỏi
những người khác và xem xét vật chứng, tài
liệu có liên quan đến vụ án.
Điều
210.
Hỏi người bị hại, nguyên đơn dân
sự, bị đơn dân sự, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc
người đại diện hợp pháp của họ
Người
bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn
dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan đến vụ án hoặc người đại
diện hợp pháp của những người đó trình
bày về những tình tiết của vụ án có liên quan
đến họ. Sau đó, Hội đồng xét xử,
Kiểm sát viên, người bào chữa và người
bảo vệ quyền lợi của đương
sự hỏi thêm về những điểm mà họ trình
bày chưa đầy đủ hoặc có mâu thuẫn.
Điều
211.
Hỏi người làm chứng
1.
Hội đồng xét xử phải hỏi riêng từng
người làm chứng và không để cho những
người làm chứng khác biết được nội
dung xét hỏi đó.
2.
Khi hỏi người làm chứng, Hội đồng xét
xử phải hỏi rõ về quan hệ giữa họ
với bị cáo và các đương sự trong vụ án.
Chủ tọa phiên toà yêu cầu người làm chứng
trình bày rõ những tình tiết vụ án mà họ đã
biết, sau đó hỏi thêm về những điểm mà
họ khai chưa đầy đủ hoặc có mâu
thuẫn. Kiểm sát viên, người bào chữa,
người bảo vệ quyền lợi của
đương sự có thể hỏi thêm người làm
chứng.
3.
Nếu người làm chứng là người chưa thành
niên thì chủ tọa phiên toà có thể yêu cầu cha,
mẹ, người đỡ đầu hoặc thầy
giáo, cô giáo giúp đỡ để hỏi.
4.
Sau khi đã trình bày xong, người làm chứng ở
lại phòng xử án để có thể được
hỏi thêm.
5.
Trong trường hợp cần thiết phải bảo
đảm an toàn cho người làm chứng và những
người thân thích của họ, Hội đồng xét
xử phải quyết định thực hiện
biện pháp bảo vệ theo quy định của pháp
luật.
Điều
212. Xem
xét vật chứng
1.
Vật chứng, ảnh hoặc biên bản xác nhận
vật chứng được đưa ra để xem
xét tại phiên tòa.
Khi
cần thiết, Hội đồng xét xử có thể cùng
với Kiểm sát viên, người bào chữa và những
người khác tham gia phiên tòa đến xem xét tại
chỗ những vật chứng không thể đưa
đến phiên tòa được. Việc xem xét tại
chỗ phải được lập biên bản theo quy
định tại Điều 95 của Bộ luật này.
2.
Kiểm sát viên, người bào chữa và những
người khác tham gia phiên tòa có quyền trình bày những
nhận xét của mình về vật chứng. Hội
đồng xét xử có thể hỏi thêm về những
vấn đề có liên quan đến vật chứng.
Điều
213.
Xem xét tại chỗ
Nếu
xét thấy cần thiết, Hội đồng xét xử có
thể cùng với Kiểm sát viên, người bào chữa
và những người khác tham gia phiên tòa đến xem xét
nơi đã xảy ra tội phạm hoặc những
địa điểm khác có liên quan đến vụ án.
Kiểm sát viên, người bào chữa và những
người khác tham gia phiên toà có quyền trình bày nhận
xét của mình về nơi đã xảy ra tội phạm
hoặc những địa điểm khác có liên quan
đến vụ án.
Hội đồng xét xử có
thể hỏi thêm những người tham gia phiên toà
về những vấn đề có liên quan đến
những nơi đó.
Việc
xem xét tại chỗ phải được lập biên
bản theo thủ tục chung quy định tại
Điều 95 của Bộ luật này.
Điều
214.
Việc trình bày, công bố các tài liệu của vụ án và
nhận xét, báo cáo của cơ quan, tổ chức
Nhận
xét, báo cáo của cơ quan, tổ chức về những
tình tiết của vụ án do đại diện của
cơ quan, tổ chức đó trình bày; trong trường
hợp không có đại diện của cơ quan, tổ
chức đó tham dự thì Hội đồng xét xử
công bố nhận xét, báo cáo tại phiên tòa.
Các
tài liệu đã có trong hồ sơ vụ án hoặc
mới đưa ra khi xét hỏi đều phải
được công bố tại phiên tòa.
Kiểm sát viên, bị cáo, người bào
chữa và những người khác tham gia phiên tòa có
quyền nhận xét về những tài liệu đó và
hỏi thêm những vấn đề có liên quan.
Điều
215.
Hỏi người giám định
1.
Người giám định trình bày kết luận của
mình về vấn đề được giao giám
định.
2.
Tại phiên tòa, người giám định có quyền
giải thích bổ sung trên cơ sở kết luận giám
định.
3.
Nếu người giám định vắng mặt, thì
chủ tọa phiên tòa công bố kết luận giám
định.
4.
Kiểm sát viên, người bào chữa và những
người khác tham gia phiên tòa có quyền nhận xét về
kết luận giám định, được hỏi
những vấn đề còn chưa rõ hoặc có mâu
thuẫn trong kết luận giám định.
5.
Khi xét thấy cần thiết, Hội đồng xét
xử quyết định giám định bổ sung
hoặc giám định lại.
Điều
216.
Kết thúc xét hỏi
Khi
nhận thấy các tình tiết của vụ án đã
được xem xét đầy đủ thì chủ
tọa phiên tòa hỏi Kiểm sát viên, bị cáo,
người bào chữa và những người khác tham gia
phiên tòa xem họ có yêu cầu xét hỏi vấn đề
gì nữa không. Nếu có người yêu cầu và xét
thấy yêu cầu đó là cần thiết thì chủ
tọa phiên tòa quyết định tiếp tục việc
xét hỏi.
CHƯƠNG XXI
TRANH LUẬN TẠI PHIÊN TÒA
Điều
217. Trình
tự phát biểu khi tranh luận
1.
Sau khi kết thúc việc xét hỏi tại phiên tòa, Kiểm
sát viên trình bày lời luận tội, đề nghị
kết tội bị cáo theo toàn bộ hay một phần
nội dung cáo trạng hoặc kết luận về
tội nhẹ hơn; nếu thấy không có căn cứ
để kết tội thì rút toàn bộ quyết
định truy tố và đề nghị Hội
đồng xét xử tuyên bố bị cáo không có tội.
Luận
tội của Kiểm sát viên phải căn cứ vào
những tài liệu, chứng cứ đã được
kiểm tra tại phiên toà và ý kiến của bị cáo,
người bào chữa, người bảo vệ
quyền lợi của đương sự và những
người tham gia tố tụng khác tại phiên toà.
2.
Bị cáo trình bày lời bào chữa, nếu bị cáo có
người bào chữa thì người này bào chữa cho
bị cáo. Bị cáo có quyền bổ sung ý kiến bào
chữa.
3.
Người bị hại, nguyên đơn dân sự,
bị đơn dân sự và người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc
người đại diện hợp pháp của họ
được trình bày ý kiến để bảo vệ
quyền và lợi ích của mình; nếu có người
bảo vệ quyền lợi cho họ thì người này
có quyền trình bày, bổ sung ý kiến.
Điều
218.
Đối đáp
Bị
cáo, người bào chữa và những người tham gia
tố tụng khác có quyền trình bày ý kiến về
luận tội của Kiểm sát viên và đưa ra
đề nghị của mình; Kiểm sát viên phải
đưa ra những lập luận của mình đối
với từng ý kiến.
Người
tham gia tranh luận có quyền đáp lại ý kiến
của người khác. Chủ toạ phiên toà không
được hạn chế thời gian tranh luận,
tạo điều kiện cho những người tham gia
tranh luận trình bày hết ý kiến, nhưng có quyền
cắt những ý kiến không có liên quan đến vụ
án.
Chủ
tọa phiên tòa có quyền đề nghị Kiểm sát viên
phải đáp lại những ý kiến có liên quan
đến vụ án của người bào chữa và
những người tham gia tố tụng khác mà những ý
kiến đó chưa được Kiểm sát viên tranh
luận.
Điều
219.
Trở lại việc xét hỏi
Nếu
qua tranh luận mà thấy cần xem xét thêm chứng cứ
thì Hội đồng xét xử có thể quyết
định trở lại việc xét hỏi. Xét hỏi
xong phải tiếp tục tranh luận.
Điều
220.
Bị cáo nói lời sau cùng
Sau
khi những người tham gia tranh luận không trình bày gì
thêm, chủ tọa phiên tòa tuyên bố kết thúc tranh
luận.
Bị
cáo được nói lời sau cùng. Không được
đặt câu hỏi khi bị cáo nói lời sau cùng. Hội
đồng xét xử có quyền yêu cầu bị cáo không
được trình bày những điểm không liên quan
đến vụ án, nhưng không được hạn
chế thời gian đối với bị cáo.
Nếu trong lời nói sau cùng,
bị cáo trình bày thêm tình tiết mới có ý nghĩa quan
trọng đối với vụ án, thì Hội đồng
xét xử phải quyết định trở lại
việc xét hỏi.
Điều
221. Xem xét việc rút quyết định truy
tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn
1.
Khi Kiểm sát viên rút một phần quyết định
truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ
hơn thì Hội đồng xét xử vẫn tiếp
tục xét xử vụ án.
2.
Trong trường hợp Kiểm sát viên rút toàn bộ
quyết định truy tố thì trước khi nghị
án, Hội đồng xét xử yêu cầu những
người tham gia tố tụng tại phiên tòa trình bày ý
kiến về việc rút truy tố đó.
CHƯƠNG XXII
NGHỊ ÁN VÀ TUYÊN ÁN
Điều
222. Nghị
án
1.
Chỉ Thẩm phán và Hội thẩm mới có quyền
nghị án. Các thành viên của Hội đồng xét xử
phải giải quyết tất cả các vấn
đề của vụ án bằng cách biểu quyết theo
đa số về từng vấn đề một.
Thẩm phán biểu quyết sau cùng. Người có ý
kiến thiểu số có quyền trình bày ý kiến của
mình bằng văn bản và được đưa vào
hồ sơ vụ án.
2.
Trong trường hợp Kiểm sát viên rút toàn bộ
quyết định truy tố thì Hội đồng xét
xử vẫn giải quyết những vấn đề
của vụ án theo trình tự quy định tại
khoản 1 Điều này. Nếu có căn cứ xác
định bị cáo không có tội thì Hội đồng
xét xử tuyên bố bị cáo không có tội; nếu
thấy việc rút truy tố không có căn cứ thì
quyết định tạm đình chỉ vụ án và
kiến nghị với Viện kiểm sát cấp trên
trực tiếp.
3.
Khi nghị án chỉ được căn cứ vào các
chứng cứ và tài liệu đã được thẩm
tra tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy
đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của
Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa và
những người tham gia tố tụng khác tại phiên
toà.
4.
Khi nghị án phải có biên bản ghi lại các ý kiến
đã thảo luận và quyết định của
Hội đồng xét xử. Biên bản nghị án phải
được tất cả các thành viên Hội
đồng xét xử ký tại phòng nghị án trước
khi tuyên án.
Điều
223.
Trở lại việc xét hỏi và tranh luận
Qua
việc nghị án nếu thấy có tình tiết của
vụ án chưa được xét hỏi hoặc xét
hỏi chưa đầy đủ thì Hội đồng
xét xử quyết định trở lại việc xét
hỏi và tranh luận.
Điều
224.
Bản án
1.
Toà án ra bản án nhân danh nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam.
2.
Trong bản án cần phải ghi rõ: ngày, giờ, tháng,
năm và địa điểm phiên toà; họ tên của
các thành viên Hội đồng xét xử và Thư ký Toà án;
họ tên của Kiểm sát viên; họ tên, ngày, tháng, năm
sinh, nơi sinh, nơi cư trú, nghề nghiệp, trình
độ văn hóa, thành phần xã hội, tiền án,
tiền sự của bị cáo; ngày bị cáo bị
tạm giữ, tạm giam; họ tên, tuổi, nghề
nghiệp, nơi sinh, nơi cư trú của người
đại diện hợp pháp của bị cáo; họ tên
của người bào chữa; họ tên, tuổi, nghề
nghiệp, nơi cư trú của người bị
hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân
sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan đến vụ án, người đại diện
hợp pháp của họ.
3.
Trong bản án phải trình bày việc phạm tội
của bị cáo, phân tích những chứng cứ xác
định có tội và chứng cứ xác định không
có tội, xác định bị cáo có phạm tội hay
không và nếu bị cáo phạm tội thì phạm tội
gì, theo điều, khoản nào của Bộ luật hình
sự, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự và cần phải xử lý
như thế nào. Nếu bị cáo không phạm tội thì
bản án phải ghi rõ những căn cứ xác
định bị cáo không có tội và phải giải
quyết việc khôi phục danh dự, quyền và lợi
ích hợp pháp của họ. Phần cuối cùng của bản
án ghi những quyết định của Toà án và quyền
kháng cáo đối với bản án.
Điều
225.
Kiến nghị sửa chữa những khuyết
điểm trong công tác quản lý
1.
Cùng với việc ra bản án, Tòa án ra kiến nghị
cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng những
biện pháp cần thiết để khắc phục
những nguyên nhân và điều kiện phát sinh tội
phạm tại các cơ quan, tổ chức đó. Trong
thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày nhận
được kiến nghị của Tòa án, cơ quan,
tổ chức đó phải thông báo bằng văn bản
cho Tòa án biết những biện pháp được áp
dụng.
2.
Kiến nghị của Tòa án có thể được
đọc tại phiên tòa cùng với bản án hoặc
chỉ gửi riêng cho cơ quan, tổ chức hữu quan.
Điều
226.
Tuyên án
Khi
tuyên án mọi người trong phòng xử án phải
đứng dậy. Chủ tọa phiên tòa hoặc một
thành viên khác của Hội đồng xét xử đọc
bản án và sau khi đọc xong có thể giải thích thêm
về việc chấp hành bản án và quyền kháng cáo.
Nếu
bị cáo không biết tiếng Việt thì sau khi tuyên án,
người phiên dịch phải đọc lại cho
bị cáo nghe toàn bộ bản án sang thứ tiếng mà
bị cáo biết.
Điều
227.
Trả tự do cho bị cáo
Trong
những trường hợp sau đây, Hội đồng
xét xử phải tuyên bố trả tự do ngay tại
phiên tòa cho bị cáo đang bị tạm giam, nếu
họ không bị tạm giam về một tội phạm
khác:
1.
Bị cáo không có tội;
2.
Bị cáo được miễn trách nhiệm hình sự
hoặc được miễn hình phạt;
3.
Bị cáo bị xử phạt bằng các hình phạt không
phải là hình phạt tù;
4.
Bị cáo bị xử phạt tù, nhưng được
hưởng án treo;
5.
Thời hạn phạt tù bằng hoặc ngắn hơn
thời gian bị cáo đã bị tạm giam.
Điều
228.
Bắt tạm giam bị cáo sau khi tuyên án
1.
Đối với bị cáo đang bị tạm giam mà
bị phạt tù nhưng đến ngày kết thúc phiên tòa
thời hạn tạm giam đã hết thì Hội đồng
xét xử ra quyết định tạm giam bị cáo
để bảo đảm việc thi hành án, trừ
trường hợp được quy định tại
khoản 4 và khoản 5 Điều 227 của Bộ
luật này.
2.
Trong trường hợp bị cáo không bị tạm giam
nhưng bị phạt tù thì họ chỉ bị bắt
tạm giam để chấp hành hình phạt khi bản án
đã có hiệu lực pháp luật. Hội đồng xét
xử có thể ra quyết định bắt tạm giam
ngay bị cáo nếu có căn cứ cho thấy bị cáo có
thể trốn hoặc tiếp tục phạm tội.
3. Thời hạn tạm giam
bị cáo quy định tại khoản 1 và khoản 2
Điều này là bốn mươi lăm ngày, kể
từ ngày tuyên án.
4.
Đối với bị cáo bị phạt tử hình thì
Hội đồng xét xử quyết định trong
bản án việc tiếp tục tạm giam bị cáo
để bảo đảm thi hành án.
Điều
229.
Việc giao bản án
Trong
thời hạn mười ngày, kể từ ngày tuyên án, Tòa
án cấp sơ thẩm phải giao bản án cho bị cáo,
Viện kiểm sát cùng cấp, người bào chữa;
gửi bản án cho người bị xử vắng
mặt, cơ quan Công an cùng cấp; thông báo bằng văn
bản cho chính quyền xã, phường, thị trấn
hoặc cơ quan, tổ chức nơi bị cáo cư trú
hoặc làm việc.
Trong
trường hợp xử vắng mặt bị cáo theo quy
định tại điểm a hoặc điểm b
khoản 2 Điều 187 của Bộ luật này thì trong
thời hạn nêu trên bản án phải được niêm
yết tại trụ sở chính quyền xã, phường,
thị trấn nơi cư trú hoặc nơi làm việc
cuối cùng của bị cáo.
Người
bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn
dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ có
liên quan đến vụ án hoặc người đại
diện hợp pháp của họ có quyền yêu cầu Toà
án cấp trích lục bản án hoặc bản sao bản
án.
PHẦN THỨ
TƯ
XÉT XỬ PHÚC THẨM
CHƯƠNG XXIII
TÍNH CHẤT CỦA XÉT XỬ PHÚC THẨM
VÀ QUYỀN KHÁNG CÁO, KHÁNG NGHỊ
Điều
230.
Tính chất của xét xử phúc thẩm
Xét
xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên trực
tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại
quyết định sơ thẩm mà bản án, quyết
định sơ thẩm đối với vụ án đó
chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc
kháng nghị.
Điều
231. Những
người có quyền kháng cáo
Bị
cáo, người bị hại, người đại
diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo bản
án hoặc quyết định sơ thẩm.
Người
bào chữa có quyền kháng cáo để bảo vệ
lợi ích của người chưa thành niên hoặc
người có nhược điểm về tâm thần
hoặc thể chất.
Nguyên
đơn dân sự, bị đơn dân sự và
người đại diện hợp pháp của họ có
quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết
định có liên quan đến việc bồi
thường thiệt hại.
Người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ
án và người đại diện hợp pháp của
họ có quyền kháng cáo phần bản án hoặc
quyết định có liên quan đến quyền lợi,
nghĩa vụ của họ.
Người
bảo vệ quyền lợi của người chưa
thành niên hoặc người có nhược điểm
về tâm thần hoặc thể chất có quyền kháng
cáo phần bản án, quyết định của Toà án có
liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của
người mà mình bảo vệ.
Người
được Toà án tuyên bố là không có tội có quyền
kháng cáo phần lý do bản án sơ thẩm đã tuyên là
họ không có tội.
Điều
232.
Kháng nghị của Viện kiểm sát
Viện
kiểm sát cùng cấp và Viện kiểm sát cấp trên
trực tiếp có quyền kháng nghị những bản án
hoặc quyết định sơ thẩm.
Điều
233.
Thủ tục kháng cáo và kháng nghị
1.
Người kháng cáo phải gửi đơn đến
Tòa án đã xử sơ thẩm hoặc Toà án cấp phúc
thẩm. Trong trường hợp bị cáo đang bị
tạm giam, Ban giám thị trại tạm giam phải
bảo đảm cho bị cáo thực hiện quyền
kháng cáo.
Người
kháng cáo cũng có thể trình bày trực tiếp với Tòa
án đã xử sơ thẩm về việc kháng cáo. Tòa án
phải lập biên bản về việc kháng cáo đó theo
quy định tại Điều 95 của Bộ luật
này.
2.
Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát
cấp trên trực tiếp kháng nghị bằng văn
bản, có nêu rõ lý do. Kháng nghị được gửi
đến Tòa án đã xử sơ thẩm.
Điều
234.
Thời hạn kháng cáo, kháng nghị
1.
Thời hạn kháng cáo là mười lăm ngày, kể
từ ngày tuyên án. Đối với bị cáo,
đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì
thời hạn kháng cáo tính từ ngày bản án
được giao cho họ hoặc được niêm
yết.
Thời
hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp
là mười lăm ngày, của Viện kiểm sát cấp
trên trực tiếp là ba mươi ngày, kể từ ngày
tuyên án.
2.
Nếu đơn kháng cáo gửi qua bưu điện thì
ngày kháng cáo được tính căn cứ vào ngày bưu
điện nơi gửi đóng dấu ở phong bì. Trong
trường hợp đơn kháng cáo gửi qua Ban giám
thị trại tạm giam, thì ngày kháng cáo được
tính căn cứ vào ngày Ban giám thị trại tạm giam
nhận được đơn.
Điều
235. Kháng
cáo quá hạn
1.
Việc kháng cáo quá hạn có thể được chấp
nhận, nếu có lý do chính đáng.
2.
Tòa án cấp phúc thẩm thành lập Hội đồng xét
xử gồm ba Thẩm phán để xét lý do kháng cáo quá
hạn. Hội đồng xét xử có quyền ra quyết
định chấp nhận hoặc không chấp nhận
việc kháng cáo quá hạn.
Điều
236.
Thông báo về việc kháng cáo, kháng nghị
1.
Việc kháng cáo, kháng nghị phải được Toà án
cấp sơ thẩm thông báo bằng văn bản cho
Viện kiểm sát cùng cấp và những người tham
gia tố tụng trong thời hạn bảy ngày, kể
từ ngày nhận được kháng cáo, kháng nghị.
2.
Người được thông báo về việc kháng cáo,
kháng nghị có quyền gửi văn bản nêu ý kiến
của mình về nội dung kháng cáo, kháng nghị cho Toà án
cấp phúc thẩm. ý kiến của họ được
đưa vào hồ sơ vụ án.
Điều
237. Hậu
quả của việc kháng cáo, kháng nghị
1.
Những phần của bản án bị kháng cáo, kháng
nghị thì chưa được đưa ra thi hành,
trừ trường hợp quy định tại khoản
2 Điều 255 của Bộ luật này. Khi có kháng cáo,
kháng nghị đối với toàn bộ bản án thì toàn
bộ bản án chưa được đưa ra thi hành.
2.
Tòa án cấp sơ thẩm phải gửi hồ sơ
vụ án và kháng cáo, kháng nghị cho Tòa áp cấp phúc thẩm
trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày hết
hạn kháng cáo, kháng nghị.
Điều
238. Bổ
sung, thay đổi, rút kháng cáo, kháng nghị
1.
Trước khi bắt đầu hoặc tại phiên tòa
phúc thẩm, người kháng cáo hoặc Viện kiểm
sát có quyền bổ sung, thay đổi kháng cáo, kháng
nghị nhưng không được làm xấu hơn tình
trạng của bị cáo; rút một phần hoặc toàn
bộ kháng cáo, kháng nghị.
2.
Trong trường hợp rút toàn bộ kháng cáo, kháng nghị
tại phiên tòa thì việc xét xử phúc thẩm phải
được đình chỉ. Bản án sơ thẩm có
hiệu lực pháp luật kể từ ngày Toà án cấp
phúc thẩm ra quyết định đình chỉ việc
xét xử phúc thẩm.
Điều
239.
Kháng cáo, kháng nghị những
quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm
1.
Thời hạn kháng nghị đối với các quyết
định của Tòa án cấp sơ thẩm của
Viện kiểm sát cùng cấp là bảy ngày, của
Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là
mười lăm ngày, kể từ ngày Tòa án ra quyết
định.
2.
Quyết định tạm đình chỉ hoặc đình
chỉ vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm có
thể bị kháng cáo trong thời hạn bảy ngày,
kể từ ngày người có quyền kháng cáo nhận
được quyết định.
Điều
240.
Hiệu lực của bản án, quyết định
sơ thẩm của Tòa án không có kháng cáo, kháng nghị
Bản
án, quyết định và những phần của bản
án, quyết định sơ thẩm của Tòa án không
bị kháng cáo, kháng nghị thì có hiệu lực pháp
luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo,
kháng nghị.
CHƯƠNG XXIV
THỦ TỤC XÉT XỬ PHÚC THẨM
Điều
241.
Phạm vi xét xử phúc thẩm
Tòa
án cấp phúc thẩm xem xét nội dung kháng cáo, kháng
nghị. Nếu xét thấy cần thiết thì Tòa án cấp
phúc thẩm có thể xem xét các phần khác không bị kháng
cáo, kháng nghị của bản án.
Điều
242.
Thời hạn xét xử phúc thẩm
Tòa
án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu
phải mở phiên toà phúc thẩm trong thời hạn sáu
mươi ngày; Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án
quân sự trung ương phải mở phiên tòa phúc
thẩm trong thời hạn chín mươi ngày, kể
từ ngày nhận được hồ sơ vụ án.
Chậm
nhất là mười lăm ngày trước ngày mở
phiên toà, Toà án cấp phúc thẩm phải thông báo bằng
văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp và những
người tham gia tố tụng về thời gian,
địa điểm xét xử phúc thẩm vụ án.
Điều
243.
Việc Tòa án cấp phúc thẩm áp dụng, thay đổi
hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn
1.
Sau khi nhận hồ sơ vụ án, Tòa án cấp phúc
thẩm có quyền quyết định việc áp dụng,
thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn
chặn. Việc áp dụng, thay đổi hoặc huỷ
bỏ biện pháp tạm giam do Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân
dân cấp tỉnh, Toà án quân sự cấp quân khu, Thẩm
phán giữ chức vụ Chánh toà, Phó Chánh toà Toà phúc thẩm
Toà án nhân dân tối cao quyết định.
Thời
hạn tạm giam không được quá thời hạn
xét xử phúc thẩm quy định tại Điều 242
của Bộ luật này.
2.
Đối với bị cáo đang bị tạm giam mà
đến ngày mở phiên tòa thời hạn tạm giam
đã hết, nếu xét thấy cần tiếp tục
tạm giam để hoàn thành việc xét xử, thì Toà án ra
lệnh tạm giam cho đến khi kết thúc phiên tòa.
3.
Đối với bị cáo đang bị tạm giam
bị xử phạt tù mà đến ngày kết thúc phiên tòa
thời hạn tạm giam đã hết thì Hội
đồng xét xử ra quyết định tạm giam
bị cáo để bảo đảm việc thi hành án,
trừ trường hợp được quy định
tại khoản 4 và khoản 5 Điều 227 của Bộ
luật này.
Đối với bị cáo không
bị tạm giam, nhưng bị xử phạt tù thì
Hội đồng xét xử có thể ra quyết
định bắt tạm giam bị cáo ngay sau khi tuyên án,
trừ các trường hợp quy định tại
Điều 261 của Bộ luật này.
Thời
hạn tạm giam là bốn mươi lăm ngày, kể
từ ngày tuyên án.
Điều
244. Thành
phần Hội đồng xét xử phúc thẩm
Hội
đồng xét xử phúc thẩm gồm ba Thẩm phán và
trong trường hợp cần thiết có thể có thêm
hai Hội thẩm.
Điều
245.
Những người tham gia phiên tòa phúc thẩm
1.
Tại phiên tòa phúc thẩm, sự tham gia của Kiểm sát
viên Viện kiểm sát cùng cấp là bắt buộc,
nếu Kiểm sát viên vắng mặt thì phải hoãn phiên
tòa.
2.
Người bào chữa, người bảo vệ
quyền lợi của đương sự, người
kháng cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan đến việc kháng cáo, kháng nghị được
triệu tập tham gia phiên tòa. Nếu có người
vắng mặt mà có lý do chính đáng thì Hội đồng
xét xử có thể vẫn tiến hành xét xử nhưng
không được ra bản án hoặc quyết
định không có lợi cho bị cáo hoặc
đương sự vắng mặt. Trong các trường
hợp khác thì phải hoãn phiên tòa.
Thời
hạn hoãn phiên tòa theo quy định tại khoản 1,
khoản 2 Điều này hoặc tại các điều 45,
46, và 47 của Bộ luật này không được quá ba
mươi ngày, kể từ ngày ra quyết định hoãn
phiên tòa.
3.
Sự tham gia phiên tòa của những người khác do Tòa
án cấp phúc thẩm quyết định, nếu xét
thấy sự có mặt của họ là cần thiết.
Điều
246.
Bổ sung, xem xét chứng cứ tại Tòa án cấp phúc
thẩm
1.
Trước khi xét xử hoặc trong khi xét hỏi tại
phiên tòa, Viện kiểm sát có thể tự mình hoặc theo
yêu cầu của Tòa án bổ sung chứng cứ mới;
người đã kháng cáo và người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng cáo,
kháng nghị, người bào chữa, người bảo
vệ quyền lợi của đương sự
cũng có quyền bổ sung tài liệu, đồ vật.
2.
Chứng cứ cũ, chứng cứ mới, tài liệu,
đồ vật mới bổ sung đều phải
được xem xét tại phiên tòa. Bản án của Tòa án
cấp phúc thẩm phải căn cứ vào cả chứng
cứ cũ và mới.
Điều
247.
Thủ tục phiên toà phúc thẩm
Phiên
tòa phúc thẩm cũng tiến hành như phiên tòa sơ
thẩm nhưng trước khi xét hỏi, một thành viên
của Hội đồng xét xử phải trình bày tóm
tắt nội dung vụ án, quyết định của
bản án sơ thẩm, nội dung của kháng cáo hoặc
kháng nghị. Khi tranh luận, Kiểm sát viên phát biểu
quan điểm của Viện kiểm sát về việc
giải quyết vụ án.
Điều
248. Bản
án phúc thẩm và thẩm quyền của Toà án cấp phúc
thẩm
1. Tòa án ra bản án nhân danh
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Trong bản án cần
phải ghi rõ: ngày, giờ, tháng, năm và địa
điểm phiên tòa; họ tên của các thành viên Hội
đồng xét xử và Thư ký Tòa án; họ tên của Kiểm
sát viên; họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi sinh, nơi
cư trú, nghề nghiệp, trình độ văn hóa, thành
phần xã hội, tiền án, tiền sự của bị
cáo; ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam; họ
tên, tuổi, nghề nghiệp, nơi sinh, nơi cư trú
của người đại diện hợp pháp của
bị cáo; họ tên của người bào chữa; họ
tên, tuổi, nghề nghiệp, nơi cư trú của
người bị hại, nguyên đơn dân sự,
bị đơn dân sự, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người
đại diện hợp pháp của họ.
Trong bản
án phải trình bày tóm tắt nội dung vụ án, quá trình
giải quyết vụ án, quyết định của
bản án sơ thẩm, nội dung kháng cáo, kháng nghị và các
căn cứ để đưa ra một trong các
quyết định quy định tại khoản 2
Điều này. Phần cuối cùng của bản án ghi
những quyết định của Toà án.
2.
Toà án cấp phúc thẩm có quyền quyết định:
a)
Không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên
bản án sơ thẩm;
b)
Sửa bản án sơ thẩm;
c)
Hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ
vụ án để điều tra lại hoặc xét xử
lại;
d)
Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án.
3.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể
từ ngày tuyên án.
Điều
249.
Sửa bản án sơ thẩm
1.
Tòa án cấp phúc thẩm có quyền sửa bản án sơ
thẩm như sau:
a)
Miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình
phạt cho bị cáo;
b)
áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự
về tội nhẹ hơn;
c)
Giảm hình phạt cho bị cáo;
d)
Giảm mức bồi thường thiệt hại và
sửa quyết định xử lý vật chứng;
đ)
Chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ
hơn; giữ nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng
án treo.
2.
Nếu có căn cứ, Tòa án cấp phúc thẩm có thể
giảm hình phạt hoặc áp dụng điều khoản
Bộ luật hình sự về tội nhẹ hơn,
chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ
hơn; giữ nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng
án treo cho cả những bị cáo không kháng cáo hoặc không
bị kháng cáo, kháng nghị.
3.
Trong trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị
hoặc người bị hại kháng cáo yêu cầu thì Tòa
án cấp phúc thẩm có thể tăng hình phạt, áp
dụng điều khoản Bộ luật hình sự
về tội nặng hơn; tăng mức bồi
thường thiệt hại, nếu có kháng nghị
của Viện kiểm sát hoặc kháng cáo của
người bị hại, nguyên đơn dân sự;
nếu có căn cứ, Tòa án vẫn có thể giảm hình
phạt, áp dụng điều khoản Bộ luật hình
sự về tội nhẹ hơn, chuyển sang hình
phạt khác thuộc loại nhẹ hơn, giữ nguyên
mức hình phạt tù và cho hưởng án treo, giảm
mức bồi thường thiệt hại.
Điều
250.
Hủy bản án sơ thẩm để điều tra
lại hoặc xét xử lại
1.
Toà án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm
để điều tra lại khi nhận thấy
việc điều tra ở cấp sơ thẩm không
đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể
bổ sung được.
2.
Toà án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm
để xét xử lại ở cấp sơ thẩm
với thành phần Hội đồng xét xử mới
trong những trường hợp sau đây:
a)
Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm
không đúng luật định hoặc có vi phạm nghiêm
trọng khác về thủ tục tố tụng;
b)
Người được Toà án cấp sơ thẩm tuyên
bố không có tội nhưng có căn cứ cho rằng
người đó đã phạm tội.
3. Khi hủy bản án sơ
thẩm để điều tra lại hoặc xét xử
lại, Toà án cấp phúc thẩm phải ghi rõ lý do của
việc hủy bản án sơ thẩm.
4.
Khi huỷ bản án sơ thẩm để xét xử
lại, Toà án cấp phúc thẩm không quyết định
trước những chứng cứ mà Toà án cấp sơ
thẩm cần phải chấp nhận hoặc cần
phải bác bỏ, cũng như không quyết định
trước về điều khoản Bộ luật hình
sự và hình phạt mà Toà án cấp sơ thẩm sẽ
phải áp dụng.
5.
Trong trường hợp hủy bản án sơ thẩm
để điều tra lại hoặc xét xử lại
mà thời hạn tạm giam đối với bị cáo
đã hết và xét thấy việc tiếp tục tạm
giam bị cáo là cần thiết, thì Hội đồng xét
xử phúc thẩm ra quyết định tiếp tục
tạm giam bị cáo cho đến khi Viện kiểm sát
hoặc Toà án cấp sơ thẩm thụ lý lại vụ
án.
Trong
thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày
hủy bản án sơ thẩm, hồ sơ vụ án
phải được chuyển cho Viện kiểm sát
hoặc Toà án cấp sơ thẩm để giải
quyết theo thủ tục chung.
Điều
251.
Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án
Khi
có một trong những căn cứ quy định tại
điểm 1 và điểm 2 Điều 107 của Bộ
luật này thì Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án
sơ thẩm, tuyên bố bị cáo không có tội và đình
chỉ vụ án; nếu có một trong những căn
cứ quy định tại các điểm 3, 4, 5, 6 và 7
Điều 107 của Bộ luật này thì hủy bản
án sơ thẩm và đình chỉ vụ án.
Điều
252.
Điều tra lại hoặc xét xử lại vụ án
hình sự
Sau
khi Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm
để điều tra lại hoặc xét xử lại
thì Cơ quan điều tra tiến hành điều tra
lại, Viện kiểm sát truy tố lại và Tòa án
cấp sơ thẩm xét xử lại vụ án theo thủ
tục chung.
Điều
253.
Phúc thẩm những quyết định của Tòa án
cấp sơ thẩm
1.
Đối với những quyết định của Tòa
án cấp sơ thẩm bị kháng nghị hoặc kháng cáo,
Tòa án cấp phúc thẩm không phải mở phiên toà,
nhưng nếu xét cần thì có thể triệu tập
những người tham gia tố tụng cần thiết
để nghe ý kiến của họ trước khi Tòa án
ra quyết định.
2.
Tòa án cấp phúc thẩm phải ra quyết định
giải quyết việc kháng cáo hoặc kháng nghị trong
thời hạn mười ngày, kể từ ngày nhận
được hồ sơ vụ án.
3.
Khi xét những quyết định của Tòa án cấp
sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị, Tòa án cấp phúc
thẩm có những quyền hạn quy định tại
Điều 248 của Bộ luật này.
4.
Quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp
luật kể từ ngày ra quyết định.
Điều
254. Việc
giao bản án và quyết định phúc thẩm
Trong
thời hạn mười ngày, kể từ ngày tuyên án
hoặc kể từ ngày ra quyết định, Tòa án
cấp phúc thẩm phải gửi bản án hoặc
quyết định phúc thẩm cho người kháng
nghị, Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan Công an nơi
đã xử sơ thẩm, người đã kháng cáo,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
đến việc kháng cáo, kháng nghị hoặc
người đại diện hợp pháp của họ,
Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền trong
trường hợp bản án phúc thẩm có tuyên hình
phạt tiền, tịch thu tài sản và quyết
định dân sự; thông báo bằng văn bản cho chính
quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ
quan, tổ chức nơi bị cáo cư trú hoặc làm
việc. Trong trường hợp Toà phúc thẩm Toà án nhân
dân tối cao xử phúc thẩm thì thời hạn này có
thể dài hơn nhưng không quá hai mươi lăm ngày.
Người
bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn
dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan đến vụ án hoặc người đại
diện hợp pháp của họ có quyền yêu cầu Tòa
án cấp trích lục bản án hoặc bản sao bản
án.
PHẦN THỨ
NĂM
THI HÀNH BẢN ÁN VÀ QUYẾT ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN
CHƯƠNG XXV
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
VỀ THI HÀNH BẢN ÁN VÀ
QUYẾT ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Điều
255. Những
bản án và quyết định được thi hành
1.
Những bản án và quyết định được
thi hành là những bản án và quyết định đã có
hiệu lực pháp luật, bao gồm:
a)
Những bản án và quyết định của Tòa án
cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo
trình tự phúc thẩm;
b)
Những bản án và quyết định của Tòa án
cấp phúc thẩm;
c)
Những quyết định của Tòa án giám đốc
thẩm hoặc tái thẩm.
2.
Trong trường hợp bị cáo đang bị tạm
giam mà Tòa án cấp sơ thẩm quyết định
đình chỉ vụ án, không kết tội, miễn trách
nhiệm hình sự, miễn hình phạt cho bị cáo, hình
phạt không phải là tù giam hoặc phạt tù nhưng cho
hưởng án treo hoặc khi thời hạn phạt tù
bằng hoặc ngắn hơn thời hạn đã
tạm giam thì bản án hoặc quyết định
của Tòa án được thi hành ngay, mặc dù vẫn có
thể bị kháng nghị, kháng cáo.
Điều
256.
Thủ tục đưa ra thi hành bản án và quyết
định của Toà án
1.
Trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày bản án,
quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp
luật hoặc kể từ ngày nhận được
bản án, quyết định phúc thẩm, quyết
định giám đốc thẩm, quyết định tái
thẩm, Chánh án Toà án đã xử sơ thẩm phải ra
quyết định thi hành án hoặc ủy thác cho Toà án
khác cùng cấp ra quyết định thi hành án.
2.
Quyết định thi hành án phải ghi rõ họ tên
người ra quyết định; tên cơ quan có
nhiệm vụ thi hành bản án hoặc quyết
định; họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi cư trú
của người bị kết án; bản án hoặc
quyết định mà người bị kết án
phải chấp hành.
Trong
trường hợp người bị kết án đang
tại ngoại thì quyết định thi hành án phạt tù
phải ghi rõ trong thời hạn bảy ngày, kể từ
ngày nhận được quyết định,
người đó phải có mặt tại cơ quan Công an
để thi hành án.
3. Quyết định thi hành án, trích
lục bản án hoặc quyết định phải
được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp
nơi thi hành án, cơ quan thi hành án và người bị
kết án.
4.
Trong trường hợp người bị kết án
phạt tù đang tại ngoại mà bỏ trốn, thì Chánh
án Toà án đã ra quyết định thi hành án yêu cầu
Cơ quan công an cùng cấp ra quyết định truy nã.
Điều
257.
Cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ thi hành bản án
và quyết định của Toà án
1.
Cơ quan Công an thi hành hình phạt trục xuất, tù có
thời hạn, tù chung thân và tham gia Hội đồng thi
hành hình phạt tử hình theo quy định tại
Điều 259 của Bộ luật này.
2.
Chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc
cơ quan, tổ chức nơi người bị kết
án cư trú hoặc làm việc có nhiệm vụ theo dõi, giáo
dục, giám sát việc cải tạo của những người
được hưởng án treo hoặc bị phạt
cải tạo không giam giữ.
3. Việc thi hành hình phạt quản
chế, cấm cư trú, tước một số
quyền công dân, cấm đảm nhiệm chức vụ,
cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất
định do chính quyền xã, phường, thị
trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi thi hành án
đảm nhiệm.
4.
Cơ sở chuyên khoa y tế thi hành quyết định
về bắt buộc chữa bệnh.
5.
Cơ quan thi hành án dân sự thi hành hình phạt tiền,
tịch thu tài sản và quyết định dân sự trong
vụ án hình sự. Chính quyền xã, phường, thị
trấn hoặc cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ
giúp chấp hành viên trong việc thi hành án. Nếu cần
phải áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án
thì cơ quan Công an và các cơ quan hữu quan khác có nhiệm
vụ phối hợp.
6.
Việc thi hành bản án và quyết định của Toà
án quân sự do các tổ chức trong Quân đội
đảm nhiệm, trừ hình phạt trục xuất.
7.
Các cơ quan thi hành án phải báo cho Chánh án Toà án đã ra
quyết định thi hành án về việc bản án
hoặc quyết định đã được thi hành;
nếu chưa thi hành được thì phải nêu rõ lý do.
CHƯƠNG XXVI
THI HÀNH HÌNH PHẠT TỬ HÌNH
Điều
258.
Thủ tục xem xét bản án tử hình trước khi
đưa ra thi hành
1.
Sau khi bản án tử hình có hiệu lực pháp luật,
hồ sơ vụ án phải được gửi ngay lên
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và bản án phải
được gửi ngay lên Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao.
Trong
thời hạn hai tháng, kể từ ngày nhận
được bản án và hồ sơ vụ án, Chánh án Tòa
án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao phải quyết định kháng
nghị hoặc quyết định không kháng nghị giám
đốc thẩm hoặc tái thẩm.
Trong
thời hạn bảy ngày, kể từ ngày bản án có
hiệu lực pháp luật, người bị kết án
được gửi đơn xin ân giảm lên Chủ
tịch nước.
2.
Bản án tử hình được thi hành, nếu Chánh án
Toà án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao không kháng nghị theo thủ
tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
Trong
trường hợp bản án tử hình bị kháng
nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc
tái thẩm mà Hội đồng giám đốc thẩm,
Hội đồng tái thẩm Toà án nhân dân tối cao
quyết định không chấp nhận kháng nghị và giữ
nguyên bản án tử hình, thì Toà án nhân dân tối cao phải
thông báo ngay cho người bị kết án biết
để họ làm đơn xin ân giảm án tử hình.
Trong
trường hợp người bị kết án xin ân
giảm hình phạt tử hình thì bản án tử hình
được thi hành sau khi Chủ tịch nước bác
đơn xin ân giảm.
Điều
259.
Thi hành hình phạt tử hình
1.
Chánh án Tòa án đã xử sơ thẩm ra quyết
định thi hành án và thành lập Hội đồng thi
hành hình phạt tử hình gồm đại diện Tòa án,
Viện kiểm sát và Công an. Hội đồng thi hành án
phải kiểm tra căn cước của người
bị kết án trước khi thi hành án.
Trong
trường hợp người bị kết án là phụ
nữ thì trước khi ra quyết định thi hành án,
Chánh án Toà án đã xét xử sơ thẩm phải tổ
chức kiểm tra các điều kiện không áp dụng
hình phạt tử hình được quy định
tại Điều 35 của Bộ luật hình sự.
Nếu có căn cứ người bị kết án có
điều kiện quy định tại Điều 35
của Bộ luật hình sự thì Chánh án Toà án đã xét
xử sơ thẩm không ra quyết định thi hành án và
báo cáo Chánh án Toà án nhân dân tối cao để xem xét
chuyển hình phạt tử hình thành tù chung thân cho
người bị kết án.
Trước
khi thi hành án đối với người bị kết án
là phụ nữ thì Hội đồng thi hành án ngoài
việc kiểm tra căn cước, phải kiểm tra
các tài liệu liên quan đến điều kiện không
thi hành án tử hình được quy định tại
Điều 35 của Bộ luật hình sự.
Trong
trường hợp Hội đồng thi hành án phát
hiện người bị kết án có điều kiện
quy định tại Điều 35 của Bộ luật
hình sự thì Hội đồng thi hành án hoãn thi hành án và báo
cáo Chánh án Toà án đã ra quyết định thi hành án
để báo cáo Chánh án Toà án nhân dân tối cao xem xét
chuyển hình phạt tử hình thành tù chung thân cho
người bị kết án.
2.
Trước khi thi hành án phải giao cho người bị
kết án đọc quyết định thi hành án,
quyết định không kháng nghị của Chánh án Tòa án
nhân dân tối cao và quyết định không kháng nghị
của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
tối cao; nếu người bị kết án đã có
đơn xin ân giảm án tử hình thì giao cho họ đọc
bản sao quyết định của Chủ tịch
nước bác đơn xin ân giảm.
3.
Hình phạt tử hình được thi hành bằng xử
bắn.
4.
Việc thi hành hình phạt tử hình phải
được lập biên bản ghi rõ việc đã giao
các quyết định cho người bị kết án xem,
những lời nói của họ và những thư từ,
đồ vật mà họ gửi lại cho người
thân thích.
5.
Trong trường hợp có tình tiết đặc biệt,
Hội đồng thi hành án hoãn thi hành và báo cáo Chánh án Toà án
đã ra quyết định thi hành án để báo cáo Chánh
án Tòa án nhân dân tối cao.
CHƯƠNG XXVII
THI HÀNH HÌNH PHẠT TÙ VÀ CÁC HÌNH PHẠT KHÁC
Điều
260.
Thi hành hình phạt tù
1.
Trong trường hợp người bị kết án
đang bị tạm giam thì theo yêu cầu của
người thân thích người bị kết án, cơ
quan Công an phải cho phép người bị kết án
gặp người thân thích trước khi thi hành án.
Ban
giám thị trại giam phải thông báo cho gia đình
người bị kết án biết nơi người
đó chấp hành hình phạt.
2. Trong trường hợp người
bị kết án đang tại ngoại, nếu quá thời
hạn mà không có mặt tại cơ quan Công an để
chấp hành án thì người bị kết án sẽ bị
áp giải.
3.
Chánh án Tòa án đã ra quyết định thi hành án phải
theo dõi việc thi hành án. Cơ quan Công an phải thông báo
bằng văn bản cho Tòa án về việc bắt
người bị kết án để thi hành án hoặc lý
do chưa bắt được và biện pháp cần áp
dụng để bảo đảm việc thi hành án.
4.
Trong trường hợp người đang chấp hành
hình phạt tù trốn khỏi trại giam thì cơ quan Công
an ra quyết định truy nã.
Điều
261.
Hoãn chấp hành hình phạt tù
1.
Đối với người bị xử phạt tù
đang được tại ngoại, Chánh án Tòa án đã
ra quyết định thi hành án có thể tự mình
hoặc theo đề nghị của Viện kiểm sát,
cơ quan Công an cùng cấp hoặc người bị
kết án cho hoãn chấp hành hình phạt tù trong
trường hợp được quy định tại
khoản 1 Điều 61 của Bộ luật hình sự.
2.
Chậm nhất là bảy ngày trước khi hết
thời hạn hoãn chấp hành hình phạt tù, Chánh án Toà án
đã cho hoãn chấp hành hình phạt tù phải ra quyết
định thi hành án và phải gửi ngay quyết
định thi hành án cùng bản án, quyết định
phạt tù đã có hiệu lực pháp luật cho cơ quan
Công an cùng cấp và người bị kết án
trước khi hết thời hạn hoãn chấp hành hình
phạt tù.
Nếu
quá thời hạn bảy ngày, kể từ ngày hết
thời hạn hoãn chấp hành hình phạt tù, người
bị kết án không có mặt tại cơ quan Công an
để đi chấp hành hình phạt tù mà không có lý do
chính đáng, thì cơ quan Công an phải áp giải
người bị kết án đi chấp hành hình phạt
tù.
Điều
262.
Tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù
1.
Theo đề nghị của Viện kiểm sát hoặc
của Ban giám thị trại giam nơi người bị
kết án đang chấp hành hình phạt tù:
a)
Chánh án Tòa án cấp tỉnh nơi người đang
chấp hành hình phạt tù có thể cho người đó
được tạm đình chỉ chấp hành hình
phạt tù trong trường hợp quy định tại
điểm a khoản 1 Điều 61 và Điều 62
của Bộ luật hình sự;
b) Chánh án Tòa án đã ra quyết định
thi hành án có thể cho người đang chấp hành hình
phạt tù được tạm đình chỉ chấp
hành hình phạt tù trong các trường hợp quy
định tại các điểm b, c và d khoản 1
Điều 61 và Điều 62 của Bộ luật hình
sự.
Chậm nhất là bảy ngày
trước khi hết thời hạn tạm đình
chỉ chấp hành hình phạt tù, Chánh án Toà án đã cho
tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù phải ra
quyết định thi hành án đối với phần
hình phạt còn lại và phải gửi ngay quyết
định đó cho cơ quan Công an cùng cấp nơi Tòa án
đã ra quyết định tạm đình chỉ và
người bị kết án.
Nếu
quá thời hạn bảy ngày, kể từ ngày hết
thời hạn tạm đình chỉ chấp hành hình
phạt tù, người bị kết án không có mặt
tại cơ quan Công an để đi chấp hành hình
phạt tù mà không có lý do chính đáng, thì cơ quan Công an
phải áp giải người bị kết án đi
chấp hành hình phạt tù.
2.
Việc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù
để xét xử theo thủ tục giám đốc
thẩm hoặc tái thẩm phải do người đã
kháng nghị hoặc do Tòa án cấp giám đốc thẩm
hoặc tái thẩm quyết định.
Điều
263.
Quản lý người được hoãn hoặc
được tạm đình chỉ chấp hành hình
phạt tù
1.
Người được hoãn hoặc được
tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù
được giao cho chính quyền xã, phường,
thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi
họ cư trú hoặc làm việc quản lý. Họ không
được tự ý đi nơi khác, nếu không
được phép của chính quyền xã, phường,
thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức quản lý
họ.
2.
Nếu trong thời gian được hoãn hoặc tạm
đình chỉ chấp hành hình phạt mà người
bị kết án có hành vi vi phạm pháp luật nghiêm
trọng hoặc có căn cứ cho rằng người
đó bỏ trốn thì Chánh án Tòa án đã cho hoãn hoặc
tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù hủy
bỏ quyết định đó và ra quyết định
thi hành án để bắt họ đi chấp hành hình
phạt tù. Quyết định thi hành án được
gửi cho cơ quan Công an cùng cấp nơi Tòa án đã ra
quyết định. Ngay sau khi nhận được
quyết định thi hành án, cơ quan Công an phải
tổ chức bắt, áp giải người bị
kết án đi chấp hành hình phạt tù.
Điều
264. Thi
hành hình phạt tù cho hưởng án treo, hình phạt cải
tạo không giam giữ
Người
bị phạt tù được hưởng án treo và
người bị phạt cải tạo không giam giữ
được giao cho chính quyền xã, phường,
thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi
họ cư trú hoặc làm việc để giám sát, giáo
dục.
Điều
265. Thi hành hình phạt trục xuất
Người
bị phạt trục xuất phải rời khỏi lãnh
thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam trong thời hạn chậm nhất là
mười lăm ngày, kể từ ngày có quyết
định thi hành án. Trong trường hợp người
bị phạt trục xuất phải chấp hành các hình
phạt khác hoặc phải thực hiện các nghĩa
vụ khác thì thời hạn họ rời khỏi lãnh
thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam do pháp luật quy định.
Điều
266.
Thi hành hình phạt quản chế hoặc cấm cư trú
Đối
với người bị phạt quản chế thì sau khi
chấp hành xong hình phạt tù, người bị kết án
được giao cho chính quyền xã, phường,
thị trấn nơi họ cư trú để thi hành hình
phạt quản chế. Người bị phạt cấm
cư trú thì không được tạm trú, thường trú
ở những địa phương bị cấm cư
trú.
Điều
267.
Thi hành hình phạt tiền hoặc tịch thu tài sản
Quyết
định đưa bản án phạt tiền hoặc
tịch thu tài sản ra thi hành phải được
gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp, chấp hành viên,
người bị kết án và chính quyền xã,
phường, thị trấn nơi người bị
kết án cư trú.
Việc
tịch thu tài sản được tiến hành theo quy
định tại Điều 40 của Bộ luật hình
sự.
CHƯƠNG XXVIII
GIẢM THỜI HẠN HOẶC MIỄN CHẤP HÀNH HÌNH
PHẠT
Điều
268.
Điều kiện để
được giảm thời hạn hoặc miễn
chấp hành hình phạt
1.
Người đang chấp hành hình phạt tù, cải
tạo không giam giữ, cấm cư trú hoặc quản
chế có thể được giảm thời hạn
chấp hành hình phạt theo quy định tại các
điều 57, 58, 59 và 76 của Bộ luật hình sự;
nếu họ chưa chấp hành hình phạt thì có thể
được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt
theo quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 5 Điều
57 của Bộ luật hình sự.
Người đang được tạm
đình chỉ chấp hành hình phạt tù có thể
được miễn chấp hành hình phạt còn lại
theo quy định tại khoản 4 Điều 57 của
Bộ luật hình sự.
Người
đã chấp hành được một phần hình
phạt tiền có thể được miễn chấp
hành phần tiền phạt còn lại theo quy định
tại khoản 2 Điều 58 và khoản 3 Điều 76
của Bộ luật hình sự.
2.
Người bị phạt tù được hưởng
án treo có thể được rút ngắn thời gian
thử thách theo quy định tại Điều 60 của
Bộ luật hình sự.
Điều
269.
Thủ tục giảm thời hạn hoặc miễn
chấp hành hình phạt
1.
Tòa án có thẩm quyền quyết định giảm
thời hạn chấp hành hình phạt tù là Tòa án nhân dân
cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu nơi
người bị kết án chấp hành hình phạt.
Tòa
án có thẩm quyền quyết định miễn chấp
hành hình phạt tù là Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân
sự cấp quân khu nơi người bị kết án
cư trú hoặc làm việc.
Việc
giảm thời hạn hoặc miễn chấp hành các hình
phạt khác hoặc giảm thời gian thử thách
thuộc thẩm quyền quyết định của Tòa án
nhân dân cấp huyện, Tòa án quân sự khu vực nơi
người bị kết án chấp hành hình phạt
hoặc chịu thử thách.
2.
Hồ sơ đề nghị xét miễn chấp hành hình
phạt cải tạo không giam giữ, miễn chấp hành
toàn bộ hoặc phần hình phạt tù còn lại,
miễn chấp hành phần tiền phạt còn lại
phải có đề nghị của Viện trưởng
Viện kiểm sát cùng cấp.
Hồ
sơ đề nghị xét giảm thời hạn chấp
hành hình phạt tù phải có đề nghị của
cơ quan thi hành hình phạt tù.
Hồ
sơ đề nghị xét giảm thời hạn chấp
hành hình phạt cải tạo không giam giữ phải có
đề nghị của cơ quan, tổ chức hoặc
chính quyền địa phương được giao
nhiệm vụ trực tiếp giám sát, giáo dục.
Hồ
sơ đề nghị xét giảm hoặc miễn
chấp hành hình phạt khác hoặc rút ngắn thời gian
thử thách của án treo phải có đề nghị
hoặc nhận xét của cơ quan, tổ chức có
nhiệm vụ thi hành án quy định tại Điều
257 của Bộ luật này.
3.
Khi Tòa án xét giảm thời hạn hoặc miễn chấp
hành hình phạt, một thành viên của Tòa án trình bày vấn
đề cần được xem xét, đại diện
Viện kiểm sát phát biểu ý kiến, Tòa án ra quyết
định chấp nhận hoặc bác đề nghị giảm
thời hạn, miễn chấp hành hình phạt hoặc rút
ngắn thời gian thử thách.
CHƯƠNG XXIX
XÓA ÁN TÍCH
Điều
270.
Đương nhiên xóa án tích
Theo
yêu cầu của người được
đương nhiên xóa án tích quy định tại
Điều 64 của Bộ luật hình sự, Chánh án Tòa án
đã xử sơ thẩm vụ án cấp giấy
chứng nhận là họ đã được xóa án tích.
Điều
271.
Xóa án tích do Toà án quyết định
1.
Trong những trường hợp quy định tại
Điều 65 và Điều 66 của Bộ luật hình
sự, việc xóa án tích do Toà án quyết định.
Người bị kết án phải có đơn gửi
Toà án đã xử sơ thẩm vụ án kèm theo nhận xét
của chính quyền xã, phường, thị trấn
hoặc cơ quan, tổ chức nơi họ cư trú
hoặc làm việc.
2.
Chánh án Toà án đã xử sơ thẩm chuyển tài liệu
về việc xin xoá án tích cho Viện kiểm sát cùng
cấp để phát biểu ý kiến bằng văn
bản. Nếu xét thấy đủ điều kiện
thì Chánh án ra quyết định xóa án tích; trong
trường hợp chưa đủ điều kiện
thì quyết định bác đơn xin xóa án tích.
PHẦN THỨ SÁU
XÉT LẠI BẢN ÁN VÀ
QUYẾT ĐỊNH ĐÃ CÓ
HIỆU LỰC PHÁP LUẬT
CHƯƠNG XXX
THỦ TỤC GIÁM ĐỐC
THẨM
Điều
272. Tính
chất của giám đốc thẩm
Giám
đốc thẩm là xét lại bản án hoặc quyết
định đã có hiệu lực pháp luật nhưng
bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật
nghiêm trọng trong việc xử lý vụ án.
Điều
273.
Căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám
đốc thẩm
Bản
án hoặc quyết định của Tòa án đã có
hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ
tục giám đốc thẩm, khi có một trong những
căn cứ sau đây:
1.
Việc điều tra xét hỏi tại phiên tòa phiến
diện hoặc không đầy đủ;
2.
Kết luận trong bản án hoặc quyết định
không phù hợp với những tình tiết khách quan của
vụ án;
3.
Có sự vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố
tụng trong khi điều tra, truy tố hoặc xét
xử;
4.
Có những sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng
Bộ luật hình sự.
Điều
274. Phát
hiện bản án hoặc quyết định đã có hiệu
lực pháp luật cần xét lại theo thủ tục giám
đốc thẩm
Người
bị kết án, cơ quan, tổ chức và mọi công dân
có quyền phát hiện những vi phạm pháp luật trong
các bản án và quyết định của Tòa án đã có hiệu
lực pháp luật và thông báo cho những người có
quyền kháng nghị quy định tại Điều 275
của Bộ luật này.
Trong
trường hợp phát hiện thấy những vi
phạm pháp luật trong bản án hoặc quyết
định của Toà án đã có hiệu lực pháp
luật, Viện kiểm sát, Tòa án phải thông báo cho
người có quyền kháng nghị quy định tại
Điều 275 của Bộ luật này.
Điều
275.
Những người có quyền
kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
1.
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền kháng
nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án
hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp
luật của Tòa án các cấp, trừ quyết
định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao.
2.
Chánh án Tòa án quân sự trung ương và Viện
trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương
có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc
thẩm bản án hoặc quyết định đã có
hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sự cấp
dưới.
3.
Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Chánh án Tòa án quân
sự cấp quân khu và Viện trưởng Viện
kiểm sát quân sự cấp quân khu có quyền kháng nghị
theo thủ tục giám đốc thẩm bản án hoặc
quyết định đã có hiệu lực pháp luật
của Tòa án cấp dưới.
Điều
276.
Tạm đình chỉ thi hành bản án hoặc quyết
định bị kháng nghị theo thủ tục giám
đốc thẩm
Những
người đã kháng nghị bản án hoặc quyết
định đã có hiệu lực pháp luật có quyền
quyết định tạm đình chỉ thi hành bản án
hoặc quyết định đó.
Quyết
định tạm đình chỉ thi hành bản án phải
gửi cho Toà án, Viện kiểm sát nơi đã xử
sơ thẩm và cơ quan thi hành án có thẩm quyền.
Điều
277.
Kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
1. Kháng nghị theo thủ tục giám
đốc thẩm phải nêu rõ lý do và được
gửi cho:
a)
Tòa án đã ra bản án hoặc quyết định bị
kháng nghị;
b)
Tòa án sẽ xét xử giám đốc thẩm;
c)
Người bị kết án và những người có
quyền và lợi ích liên quan đến việc kháng
nghị.
2.
Nếu không có căn cứ để kháng nghị theo
thủ tục giám đốc thẩm, thì trước khi
hết thời hạn kháng nghị quy định tại
Điều 278 của Bộ luật này, người có
quyền kháng nghị phải trả lời cho
người hoặc cơ quan, tổ chức đã phát
hiện biết rõ lý do của việc không kháng nghị.
3.
Trước khi bắt đầu phiên tòa giám đốc
thẩm, người đã kháng nghị có quyền bổ
sung kháng nghị nếu chưa hết thời hạn kháng
nghị quy định tại Điều 278 của Bộ
luật này hoặc rút kháng nghị.
Điều
278.
Thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám
đốc thẩm
1.
Việc kháng nghị theo hướng không có lợi cho
người bị kết án chỉ được
tiến hành trong thời hạn một năm, kể
từ ngày bản án hoặc quyết định có hiệu
lực pháp luật.
2.
Việc kháng nghị theo hướng có lợi cho
người bị kết án có thể được
tiến hành bất cứ lúc nào, kể cả trường
hợp người bị kết án đã chết mà
cần minh oan cho họ.
3.
Việc kháng nghị về dân sự trong vụ án hình
sự đối với nguyên đơn dân sự, bị
đơn dân sự, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến vụ án được
tiến hành theo quy định của pháp luật về
tố tụng dân sự.
Điều
279.
Thẩm quyền giám đốc thẩm
1.
ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh giám
đốc thẩm những bản án hoặc quyết
định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa
án nhân dân cấp huyện. ủy ban Thẩm phán Tòa án quân
sự cấp quân khu giám đốc thẩm những
bản án hoặc quyết định đã có hiệu
lực pháp luật của Tòa án quân sự khu vực.
2.
Tòa hình sự Tòa án nhân dân tối cao giám đốc thẩm
những bản án hoặc quyết định đã có
hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp
tỉnh. Tòa án quân sự trung ương giám đốc
thẩm những bản án hoặc quyết định
đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sự
cấp quân khu.
3.
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao giám
đốc thẩm những bản án hoặc quyết
định đã có hiệu lực pháp luật của Toà
án quân sự trung ương, của Toà hình sự, các Toà
phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao bị kháng nghị.
4.
Những bản án hoặc quyết định đã có
hiệu lực pháp luật về cùng một vụ án hình
sự thuộc thẩm quyền giám đốc thẩm
của các cấp khác nhau được quy định
tại các khoản 1, 2 và 3 của Điều này thì cấp
có thẩm quyền cấp trên giám đốc thẩm toàn
bộ vụ án.
Điều
280.
Những người tham gia phiên tòa giám đốc thẩm
Phiên
tòa giám đốc thẩm phải có sự tham gia của
Viện kiểm sát cùng cấp.
Khi
xét thấy cần thiết, Tòa án phải triệu tập
người bị kết án, người bào chữa và có
thể triệu tập những người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng
nghị tham gia phiên tòa giám đốc thẩm.
Điều
281. Thành
phần Hội đồng giám đốc thẩm
1.
Hội đồng giám đốc thẩm Tòa hình sự Tòa
án nhân dân tối cao hoặc Tòa án quân sự trung ương
gồm ba Thẩm phán. Nếu Uỷ ban Thẩm phán Tòa án
nhân dân cấp tỉnh, Uỷ ban Thẩm phán Tòa án quân
sự cấp quân khu hoặc Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao giám đốc thẩm thì phải
có ít nhất hai phần ba tổng số thành viên của
Uỷ ban Thẩm phán hoặc Hội đồng Thẩm
phán tham gia xét xử.
Quyết
định giám đốc thẩm của Uỷ ban
Thẩm phán hoặc Hội đồng Thẩm phán phải
được quá nửa tổng số thành viên của
Uỷ ban Thẩm phán hoặc Hội đồng Thẩm
phán tán thành.
2.
Tại phiên tòa giám đốc thẩm của Uỷ ban
Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Uỷ ban Thẩm
phán Tòa án quân sự cấp quân khu, Hội đồng
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao khi biểu quyết
về nội dung kháng nghị thì phải biểu quyết
theo trình tự những ý kiến đồng ý với kháng
nghị, những ý kiến không đồng ý với kháng
nghị. Nếu không có loại ý kiến nào được
quá nửa tổng số thành viên của Uỷ ban Thẩm
phán, Hội đồng Thẩm phán biểu quyết tán
thành, thì phải hoãn phiên toà. Trong thời hạn ba mươi
ngày, kể từ ngày ra quyết định hoãn phiên tòa thì
Uỷ ban Thẩm phán, Hội đồng Thẩm phán
phải mở phiên tòa xét xử lại vụ án với
sự tham gia của toàn thể các thành viên.
Điều
282.
Chuẩn bị phiên tòa và thủ tục phiên tòa giám
đốc thẩm
1.
Chánh án Tòa án phân công một Thẩm phán làm bản thuyết
trình về vụ án tại phiên tòa. Bản thuyết trình
tóm tắt nội dung vụ án và các bản án, quyết
định của các cấp Tòa án, nội dung của kháng
nghị. Bản thuyết trình phải được
gửi trước cho các thành viên Hội đồng chậm
nhất là bảy ngày trước ngày mở phiên tòa giám
đốc thẩm.
2.
Tại phiên tòa, một thành viên của Hội đồng
giám đốc thẩm trình bày bản thuyết trình về
vụ án. Các thành viên của Hội đồng giám
đốc thẩm phát biểu ý kiến và đại
diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm
của Viện kiểm sát về việc giải quyết
vụ án.
Nếu
đã triệu tập người bị kết án,
người bào chữa, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến việc kháng nghị thì
những người này được trình bày ý kiến
trước khi đại diện Viện kiểm sát phát
biểu. Trong trường hợp họ vắng mặt thì
Hội đồng giám đốc thẩm vẫn có thể
tiến hành xét xử.
Điều
283.
Thời hạn giám đốc thẩm
Phiên
tòa giám đốc thẩm phải được tiến
hành trong thời hạn bốn tháng, kể từ ngày
nhận được kháng nghị.
Điều
284.
Phạm vi giám đốc thẩm
Hội
đồng giám đốc thẩm phải xem xét toàn bộ
vụ án mà không chỉ hạn chế trong nội dung
của kháng nghị.
Điều
285.
Thẩm quyền của Hội đồng giám đốc
thẩm
Hội
đồng giám đốc thẩm có quyền ra quyết
định :
1.
Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án
hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp
luật;
2.
Hủy bản án hoặc quyết định đã có
hiệu lực pháp luật và đình chỉ vụ án ;
3.
Hủy bản án hoặc quyết định đã có
hiệu lực pháp luật để điều tra
lại hoặc xét xử lại.
Điều
286.
Hủy bản án hoặc quyết định đã có
hiệu lực pháp luật và đình chỉ vụ án
Hội
đồng giám đốc thẩm hủy bản án
hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp
luật và đình chỉ vụ án, nếu có một trong
những căn cứ quy định tại Điều 107
của Bộ luật này.
Điều
287.
Hủy bản án hoặc quyết định đã có
hiệu lực pháp luật để điều tra
lại hoặc xét xử lại
Hội đồng giám đốc thẩm
hủy bản án hoặc quyết định đã có
hiệu lực pháp luật bị kháng nghị để
điều tra lại hoặc xét xử lại, nếu có
một trong những căn cứ quy định tại
Điều 273 của Bộ luật này. Nếu cần xét
xử lại thì tùy trường hợp, Hội
đồng giám đốc thẩm có thể quyết
định xét xử lại từ cấp sơ thẩm
hoặc cấp phúc thẩm.
Trong
trường hợp hủy bản án hoặc quyết
định bị kháng nghị để điều tra
lại hoặc để xét xử lại và xét thấy
việc tiếp tục tạm giam bị cáo là cần
thiết, thì Hội đồng giám đốc thẩm ra
lệnh tạm giam cho đến khi Viện kiểm sát
hoặc Tòa án thụ lý lại vụ án.
Điều
288. Hiệu
lực của quyết định giám đốc thẩm
và việc giao quyết định giám đốc thẩm
1.
Quyết định của Hội đồng giám
đốc thẩm có hiệu lực pháp luật kể
từ ngày ra quyết định.
2. Trong thời hạn mười ngày,
kể từ ngày ra quyết định, Hội
đồng giám đốc thẩm phải gửi quyết
định giám đốc thẩm cho người bị
kết án, người kháng nghị, Tòa án, Viện kiểm
sát, cơ quan Công an nơi đã xử sơ thẩm,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
đến việc kháng nghị hoặc người
đại diện hợp pháp của họ, Cơ quan thi
hành án dân sự có thẩm quyền; thông báo bằng văn
bản cho chính quyền xã, phường, thị trấn
hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị
kết án cư trú hoặc làm việc.
Điều
289.
Điều tra lại, xét xử lại vụ án sau khi
Hội đồng giám đốc thẩm huỷ bản án
hoặc quyết định
Nếu
Hội đồng giám đốc thẩm quyết
định hủy bản án hoặc quyết định
đã có hiệu lực pháp luật để điều
tra lại, thì trong thời hạn mười lăm ngày,
kể từ ngày ra quyết định, hồ sơ
vụ án phải được chuyển cho Viện
kiểm sát cùng cấp để điều tra lại theo
thủ tục chung.
Nếu
Hội đồng giám đốc thẩm quyết
định hủy bản án hoặc quyết định
đã có hiệu lực pháp luật để xét xử
lại vụ án ở cấp sơ thẩm hoặc ở
cấp phúc thẩm thì trong thời hạn mười
lăm ngày, kể từ ngày ra quyết định, hồ
sơ vụ án phải được chuyển cho Tòa án có
thẩm quyền để xét xử lại theo thủ
tục chung.
CHƯƠNG XXXI
THỦ TỤC TÁI THẨM
Điều
290.
Tính chất của tái thẩm
Thủ
tục tái thẩm được áp dụng đối
với bản án hoặc quyết định đã có
hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì có
những tình tiết mới được phát hiện có
thể làm thay đổi cơ bản nội dung của
bản án hoặc quyết định mà Tòa án không biết
được khi ra bản án hoặc quyết định
đó.
Điều
291.
Những căn cứ để kháng nghị theo thủ
tục tái thẩm
Những
tình tiết được dùng làm căn cứ để
kháng nghị tái thẩm là:
1.
Lời khai của người làm chứng, kết luận
giám định, lời dịch của người phiên
dịch có những điểm quan trọng được
phát hiện là không đúng sự thật;
2.
Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội
thẩm đã có kết luận không đúng làm cho vụ án
bị xét xử sai;
3.
Vật chứng, biên bản điều tra, biên bản các
hoạt động tố tụng khác hoặc những tài
liệu khác trong vụ án bị giả mạo hoặc không
đúng sự thật;
4.
Những tình tiết khác làm cho việc giải quyết
vụ án không đúng sự thật.
Điều
292.
Thông báo và xác minh những tình tiết mới
được phát hiện
1.
Người bị kết án, cơ quan, tổ chức và
mọi công dân có quyền phát hiện những tình tiết
mới của vụ án và báo cho Viện kiểm sát hoặc
Tòa án. Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm
quyền kháng nghị tái thẩm ra quyết định xác
minh những tình tiết đó.
2.
Nếu có một trong những căn cứ quy định
tại Điều 291 của Bộ luật này thì Viện
trưởng Viện kiểm sát ra quyết định
kháng nghị tái thẩm và chuyển hồ sơ vụ án
cho Tòa án có thẩm quyền. Nếu không có căn cứ thì
Viện trưởng Viện kiểm sát trả lời cho
cơ quan, tổ chức hoặc người đã phát
hiện biết rõ lý do của việc không kháng nghị.
Điều
293.
Những người có quyền kháng nghị theo thủ
tục tái thẩm
1. Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao có quyền kháng nghị theo thủ tục
tái thẩm đối với những bản án hoặc
quyết định đã có hiệu lực pháp luật
của Tòa án các cấp, trừ quyết định của
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.
2.
Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung
ương có quyền kháng nghị theo thủ tục tái
thẩm đối với những bản án hoặc
quyết định đã có hiệu lực pháp luật
của Tòa án quân sự cấp dưới.
3.
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp
tỉnh có quyền kháng nghị theo thủ tục tái
thẩm đối với những bản án hoặc
quyết định đã có hiệu lực pháp luật
của Tòa án nhân dân cấp huyện. Viện trưởng
Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu có quyền kháng
nghị theo thủ tục tái thẩm đối với
những bản án hoặc quyết định đã có
hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sự khu
vực.
4.
Bản kháng nghị của những người quy
định tại Điều này phải được
gửi cho người bị kết án và những
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
đến việc kháng nghị.
Điều
294.
Tạm đình chỉ thi hành bản án hoặc quyết
định đã bị kháng nghị theo thủ tục tái
thẩm
Những
người đã kháng nghị theo thủ tục tái
thẩm có quyền tạm đình chỉ thi hành bản án
hoặc quyết định bị kháng nghị.
Điều
295. Thời
hạn kháng nghị theo thủ tục tái thẩm
1.
Tái thẩm theo hướng không có lợi cho người
bị kết án phải tiến hành trong thời hiệu
truy cứu trách nhiệm hình sự quy định tại
Điều 23 của Bộ luật hình sự và thời
hạn kháng nghị không được quá một năm,
kể từ ngày Viện kiểm sát nhận
được tin báo về tình tiết mới
được phát hiện.
2.
Tái thẩm theo hướng có lợi cho người bị
kết án thì không hạn chế về thời gian và
được tiến hành trong cả trường hợp
người bị kết án đã chết mà cần minh oan
cho họ.
3.
Việc kháng nghị về dân sự trong vụ án hình
sự đối với nguyên đơn dân sự, bị
đơn dân sự, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến vụ án được
tiến hành theo quy định của pháp luật về
tố tụng dân sự.
Điều
296.
Thẩm quyền tái thẩm
1.
ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh tái
thẩm những bản án hoặc quyết định
đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân
cấp huyện. ủy ban Thẩm phán Tòa án quân sự
cấp quân khu tái thẩm bản án hoặc quyết
định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa
án quân sự khu vực.
2.
Tòa hình sự Tòa án nhân dân tối cao tái thẩm những
bản án hoặc quyết định đã có hiệu
lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Tòa
án quân sự trung ương tái thẩm bản án hoặc
quyết định đã có hiệu lực pháp luật
của Tòa án quân sự cấp quân khu.
3.
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao tái
thẩm bản án hoặc quyết định đã có
hiệu lực pháp luật của Toà án quân sự trung
ương, Toà hình sự, các Toà phúc thẩm Tòa án nhân dân
tối cao.
Điều
297.
Việc tiến hành tái thẩm
Những
quy định tại các điều 280, 281, 282 và 283
của Bộ luật này cũng được áp dụng
đối với việc tái thẩm.
Điều
298. Thẩm
quyền của Hội đồng tái thẩm
Hội
đồng tái thẩm có quyền ra quyết định:
1.
Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án
hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp
luật;
2.
Hủy bản án hoặc quyết định bị kháng
nghị để điều tra lại hoặc xét xử
lại;
3.
Huỷ bản án hoặc quyết định bị kháng
nghị và đình chỉ vụ án.
Điều
299. Hiệu lực của quyết
định tái thẩm và việc giao quyết định
tái thẩm
1.
Quyết định của Hội đồng tái thẩm
có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra quyết
định.
2.
Trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày ra
quyết định, Hội đồng tái thẩm
phải gửi quyết định tái thẩm cho
người bị kết án, người kháng nghị, Tòa
án, Viện kiểm sát, cơ quan Công an nơi đã xử
sơ thẩm, người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan đến việc kháng nghị hoặc
người đại diện hợp pháp của họ,
Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền; thông báo
bằng văn bản cho chính quyền xã, phường,
thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi
người bị kết án cư trú hoặc làm việc.
Điều
300.
Điều tra lại hoặc xét xử lại vụ án
1.
Nếu Hội đồng tái thẩm quyết định
hủy bản án hoặc quyết định đã có
hiệu lực pháp luật để điều tra
lại thì trong thời hạn mười lăm ngày,
kể từ ngày ra quyết định, hồ sơ
vụ án phải được chuyển cho Viện
kiểm sát có thẩm quyền để điều tra
lại theo thủ tục chung.
2.
Nếu Hội đồng tái thẩm quyết định
hủy bản án hoặc quyết định đã có
hiệu lực pháp luật để xét xử sơ
thẩm lại vụ án thì trong thời hạn mười
lăm ngày, kể từ ngày ra quyết định, hồ
sơ vụ án phải được chuyển cho Tòa án có
thẩm quyền để xét xử lại theo thủ
tục chung.
PHẦN THỨ
BẢY
THỦ TỤC ĐẶC BIỆT
CHƯƠNG XXXII
THỦ TỤC TỐ TỤNG ĐỐI VỚI
NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
Điều
301.
Phạm vi áp dụng
Thủ
tục tố tụng đối với người
bị bắt, người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo là người chưa thành niên được
áp dụng theo quy định của Chương này,
đồng thời theo những quy định khác của
Bộ luật này không trái với những quy định
của Chương này.
Điều
302. Điều
tra, truy tố và xét xử
1.
Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán tiến hành
tố tụng đối với người chưa thành
niên phạm tội phải là người có những
hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa
học giáo dục cũng như về hoạt động
đấu tranh phòng, chống tội phạm của
người chưa thành niên.
2.
Khi tiến hành điều tra, truy tố và xét xử
cần phải xác định rõ:
a)
Tuổi, trình độ phát triển về thể chất
và tinh thần, mức độ nhận thức về hành
vi phạm tội của người chưa thành niên;
b)
Điều kiện sinh sống và giáo dục;
c)
Có hay không có người thành niên xúi giục;
d)
Nguyên nhân và điều kiện phạm tội.
Điều
303.
Bắt, tạm giữ, tạm giam
1.
Người từ đủ 14 tuổi đến
dưới 16 tuổi có thể bị bắt, tạm
giữ, tạm giam nếu có đủ căn cứ quy
định tại các điều 80, 81, 82, 86, 88 và 120
của Bộ luật này, nhưng chỉ trong những
trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng
do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm
trọng.
2. Người từ đủ 16
tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị
bắt, tạm giữ, tạm giam nếu có đủ
căn cứ quy định tại các điều 80, 81, 82,
86, 88 và 120 của Bộ luật này, nhưng chỉ trong
những trường hợp phạm tội nghiêm trọng
do cố ý, phạm tội rất nghiêm trọng hoặc
phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.
3.
Cơ quan ra lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam
người chưa thành niên phải thông báo cho gia đình,
người đại diện hợp pháp của họ
biết ngay sau khi bắt, tạm giữ, tạm giam.
Điều
304.
Việc giám sát đối với người chưa thành
niên phạm tội
1.
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có
thể ra quyết định giao người chưa thành
niên phạm tội cho cha, mẹ hoặc người
đỡ đầu của họ giám sát để
bảo đảm sự có mặt của người
chưa thành niên phạm tội khi có giấy triệu
tập của cơ quan tiến hành tố tụng.
2.
Người được giao nhiệm vụ giám sát có
nghĩa vụ giám sát chặt chẽ người chưa
thành niên, theo dõi tư cách, đạo đức và giáo
dục người đó.
Điều
305.
Bào chữa
1.
Người đại diện hợp pháp của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là
người chưa thành niên có thể lựa chọn
người bào chữa hoặc tự mình bào chữa cho
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
2.
Trong trường hợp bị can, bị cáo là
người chưa thành niên hoặc người
đại diện hợp pháp của họ không lựa
chọn được người bào chữa thì Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải yêu
cầu Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật
sư cử người bào chữa cho họ hoặc
đề nghị Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận
cử người bào chữa cho thành viên của tổ
chức mình.
Điều
306. Việc
tham gia tố tụng của gia đình, nhà trường,
tổ chức
1.
Đại diện của gia đình người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo; thầy giáo, cô giáo,
đại diện của nhà trường, Đoàn thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh, tổ chức khác nơi
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
học tập, lao động và sinh sống có quyền và
nghĩa vụ tham gia tố tụng theo quyết
định của Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát, Toà án.
2.
Trong trường hợp người bị tạm
giữ, bị can là người từ đủ 14
tuổi đến dưới 16 tuổi hoặc là
người chưa thành niên có nhược điểm
về tâm thần hoặc thể chất hoặc trong
những trường hợp cần thiết khác, thì
việc lấy lời khai, hỏi cung những người
này phải có mặt đại diện của gia đình,
trừ trường hợp đại diện gia đình
cố ý vắng mặt mà không có lý do chính đáng.
Đại diện gia đình có thể hỏi người
bị tạm giữ, bị can nếu được
Điều tra viên đồng ý; được đưa
ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu, khiếu
nại; đọc hồ sơ vụ án khi kết thúc
điều tra.
3.
Tại phiên toà xét xử bị cáo là người chưa
thành niên phải có mặt đại diện của gia
đình bị cáo, trừ trường hợp đại
diện gia đình cố ý vắng mặt mà không có lý do
chính đáng, đại diện của nhà trường,
tổ chức.
Đại
diện của gia đình bị cáo, đại diện
của nhà trường, tổ chức tham gia phiên toà có
quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu
cầu và đề nghị thay đổi người
tiến hành tố tụng; tham gia tranh luận; khiếu
nại các hành vi tố tụng của những
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
và các quyết định của Toà án.
Điều
307.
Xét xử
1.
Thành phần Hội đồng xét xử phải có một
Hội thẩm là giáo viên hoặc là cán bộ Đoàn thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh.
Trong
trường hợp cần thiết, Tòa án có thể
quyết định xét xử kín.
2.
Khi xét xử, nếu thấy không cần thiết phải
quyết định hình phạt đối với bị
cáo thì Tòa án áp dụng một trong những biện pháp
tư pháp quy định tại Điều 70 của
Bộ luật hình sự.
Điều
308. Chấp
hành hình phạt tù
1.
Người chưa thành niên phạm tội chấp hành hình
phạt tù theo chế độ giam giữ riêng do pháp
luật quy định.
Không
được giam giữ chung người chưa thành niên
với người thành niên.
2.
Người chưa thành niên bị kết án phải
được học nghề hoặc học văn hóa
trong thời gian chấp hành hình phạt tù.
3.
Nếu người chưa thành niên đang chấp hành hình
phạt tù đã đủ mười tám tuổi thì
phải chuyển người đó sang chế độ
giam giữ người đã thành niên.
4.
Đối với người chưa thành niên đã
chấp hành xong hình phạt tù, Ban giám thị trại giam
phải phối hợp với chính quyền và tổ
chức xã hội ở xã, phường, thị trấn
để giúp người đó trở về sống bình
thường trong xã hội.
Điều
309.
Chấm dứt việc chấp hành biện pháp tư pháp,
giảm hoặc miễn chấp hành hình phạt
Người
chưa thành niên bị kết án có thể được
chấm dứt việc chấp hành biện pháp tư pháp,
giảm hoặc miễn chấp hành hình phạt khi có
đủ điều kiện quy định tại
Điều 70 hoặc Điều 76 của Bộ luật
hình sự.
Điều
310.
Xóa án tích
Việc
xóa án tích đối với người chưa thành niên
phạm tội khi có đủ điều kiện quy
định tại Điều 77 của Bộ luật hình
sự được tiến hành theo thủ tục chung.
CHƯƠNG XXXIII
THỦ TỤC ÁP DỤNG BIỆN PHÁP BẮT BUỘC
CHỮA BỆNH
Điều
311. Điều kiện và thẩm quyền áp
dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh
1.
Khi có căn cứ cho rằng người thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội không có năng lực trách
nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 13
của Bộ luật hình sự thì tùy theo giai đoạn
tố tụng, Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát, Tòa án phải trưng cầu giám định pháp y.
2.
Căn cứ vào kết luận của Hội đồng
giám định pháp y, Viện kiểm sát quyết
định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa
bệnh trong giai đoạn điều tra, truy tố; Tòa
án quyết định áp dụng biện pháp bắt
buộc chữa bệnh trong giai đoạn xét xử và thi
hành án.
Điều
312.
Điều tra
1.
Đối với vụ án có căn cứ quy định
tại khoản 1 Điều 311 của Bộ luật này,
Cơ quan điều tra phải làm sáng tỏ:
a)
Hành vi nguy hiểm cho xã hội đã xảy ra;
b)
Tình trạng tâm thần và bệnh tâm thần của
người có hành vi nguy hiểm cho xã hội;
c)
Người có hành vi nguy hiểm cho xã hội có mất
khả năng nhận thức hoặc điều
khiển hành vi của mình hay không.
2.
Khi tiến hành tố tụng, Cơ quan điều tra
phải bảo đảm có người bào chữa tham gia
tố tụng từ khi xác định là người có
hành vi nguy hiểm cho xã hội mắc bệnh tâm thần.
Đại diện hợp pháp của người đó có
thể tham gia tố tụng trong trường hợp
cần thiết.
Điều
313. Quyết
định của Viện kiểm sát sau khi kết thúc
điều tra
Sau
khi nhận được hồ sơ vụ án và bản
kết luận điều tra, Viện kiểm sát có
thể ra một trong những quyết định sau
đây:
1.
Tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án;
2.
Đình chỉ vụ án và quyết định áp dụng
biện pháp bắt buộc chữa bệnh;
3.
Truy tố bị can trước Tòa án.
Điều
314.
Xét xử
1.
Tòa án có thể ra một trong những quyết định
sau đây:
a)
Miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình
phạt và áp dụng biện pháp bắt buộc chữa
bệnh;
b)
Đình chỉ vụ án và áp dụng biện pháp bắt
buộc chữa bệnh;
c)
Tạm đình chỉ vụ án và áp dụng biện pháp
bắt buộc chữa bệnh;
d)
Trả hồ sơ để điều tra lại
hoặc điều tra bổ sung.
2.
Ngoài quyết định áp dụng biện pháp bắt
buộc chữa bệnh, Tòa án có thể giải quyết
vấn đề bồi thường thiệt hại
hoặc vấn đề khác liên quan đến vụ án.
Điều
315.
Áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh
đối với người chấp hành hình phạt tù
Trong
trường hợp có căn cứ để cho rằng
người đang chấp hành hình phạt tù mắc
bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất
khả năng nhận thức hoặc khả năng
điều khiển hành vi của mình, thì theo đề
nghị của cơ quan thi hành án phạt tù, Chánh án Toà án
nhân dân cấp tỉnh hoặc Chánh án Toà án quân sự
cấp quân khu nơi người bị kết án chấp
hành hình phạt phải trưng cầu giám định pháp
y.
Căn
cứ vào kết luận của Hội đồng giám
định pháp y, Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh
hoặc Chánh án Toà án quân sự cấp quân khu nơi
người bị kết án chấp hành hình phạt có
thể quyết định đưa họ vào một
cơ sở chuyên khoa y tế để bắt buộc
chữa bệnh. Sau khi khỏi bệnh, người đó
phải tiếp tục chấp hành hình phạt, nếu
không có lý do để miễn chấp hành hình phạt.
Điều
316.
Khiếu nại, kháng nghị, kháng cáo
1.
Khi quyết định của Viện kiểm sát về
việc áp dụng biện pháp bắt buộc chữa
bệnh bị khiếu nại thì vụ án phải
được đưa ra xét xử sơ thẩm ở
Tòa án cùng cấp.
2.
Việc kháng nghị hoặc kháng cáo đối với
quyết định của Tòa án về việc áp dụng
biện pháp bắt buộc chữa bệnh được
tiến hành như đối với bản án sơ
thẩm.
3.
Quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc
chữa bệnh của Tòa án vẫn có hiệu lực thi
hành mặc dù có khiếu nại, kháng nghị, kháng cáo.
Điều
317.
Thực hiện, đình chỉ thực hiện biện
pháp bắt buộc chữa bệnh
1.
Biện pháp bắt buộc chữa bệnh được
thực hiện ở một cơ sở chuyên khoa y tế
do Viện kiểm sát hoặc Tòa án chỉ định.
2. Khi có báo cáo của cơ sở chữa
bệnh, đơn yêu cầu của người thân thích
người bị bắt buộc chữa bệnh hoặc
yêu cầu của Viện kiểm sát thì trên cơ sở
kết luận của Hội đồng giám định y
khoa, Viện kiểm sát hoặc Tòa án đã ra quyết
định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa
bệnh có thể ra quyết định đình chỉ
thực hiện biện pháp bắt buộc chữa
bệnh, đồng thời có thể quyết định
phục hồi tố tụng đã bị tạm đình
chỉ.
CHƯƠNG XXXIV
THỦ TỤC RÚT GỌN
Điều
318.
Phạm vi áp dụng thủ tục rút gọn
Thủ
tục rút gọn đối với việc điều
tra, truy tố và xét xử sơ thẩm được áp
dụng theo quy định của Chương này,
đồng thời theo những quy định khác của
Bộ luật này không trái với những quy định
của Chương này.
Điều
319.
Điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn
Thủ
tục rút gọn chỉ được áp dụng khi có
đủ các điều kiện sau đây:
1.
Người thực hiện hành vi phạm tội bị
bắt quả tang;
2.
Sự việc phạm tội đơn giản, chứng
cứ rõ ràng;
3.
Tội phạm đã thực hiện là tội phạm ít
nghiêm trọng;
4.
Người phạm tội có căn cước, lai
lịch rõ ràng.
Điều
320.
Quyết định áp dụng thủ tục rút gọn
1.
Sau khi khởi tố vụ án, theo đề nghị
của Cơ quan điều tra hoặc xét thấy vụ
án có đủ các điều kiện quy định
tại Điều 319 của Bộ luật này, Viện
kiểm sát có thể ra quyết định áp dụng
thủ tục rút gọn.
2.
Quyết định áp dụng thủ tục rút gọn
phải được gửi cho Cơ quan điều tra
và bị can hoặc người đại diện hợp
pháp của họ trong thời hạn 24 giờ, kể
từ khi ra quyết định áp dụng thủ tục
rút gọn.
3.
Quyết định áp dụng thủ tục rút gọn có
thể bị khiếu nại. Bị can hoặc
người đại diện hợp pháp của họ có
quyền khiếu nại quyết định áp dụng
thủ tục rút gọn; thời hiệu khiếu nại
là ba ngày, kể từ ngày nhận được quyết
định. Khiếu nại được gửi
đến Viện kiểm sát đã ra quyết định
áp dụng thủ tục rút gọn và phải
được giải quyết trong thời hạn ba ngày,
kể từ ngày nhận được khiếu nại.
Điều
321.
Điều tra
1.
Thời hạn điều tra theo thủ tục rút gọn
là mười hai ngày, kể từ ngày ra quyết
định khởi tố vụ án.
2.
Khi kết thúc điều tra, Cơ quan điều tra không
phải làm bản kết luận điều tra mà ra
quyết định đề nghị truy tố và gửi
hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát.
Điều
322. Tạm
giữ, tạm giam để điều tra, truy tố
1.
Căn cứ, thẩm quyền và thủ tục tạm
giữ, tạm giam được áp dụng theo quy
định của Bộ luật này.
2.
Thời hạn tạm giữ không được quá ba
ngày, kể từ ngày Cơ quan điều tra nhận
người bị bắt.
3.
Thời hạn tạm giam để điều tra, truy
tố không được quá mười sáu ngày.
Điều
323. Quyết
định việc truy tố
1.
Trong thời hạn bốn ngày, kể từ ngày nhận
được hồ sơ vụ án, Viện kiểm sát
phải ra một trong những quyết định sau
đây:
a)
Truy tố bị can trước Tòa án bằng quyết
định truy tố;
b)
Trả hồ sơ để điều tra bổ sung;
c)
Tạm đình chỉ vụ án;
d)
Đình chỉ vụ án.
2.
Trong trường hợp trả hồ sơ để
điều tra bổ sung hoặc tạm đình chỉ
vụ án quy định tại điểm b hoặc
điểm c khoản 1 Điều này, thì Viện kiểm
sát phải ra quyết định huỷ bỏ quyết
định áp dụng thủ tục rút gọn và vụ án
được giải quyết theo thủ tục chung.
Điều
324.
Xét xử
1.
Trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận
được hồ sơ vụ án, Thẩm phán
được phân công chủ tọa phiên tòa phải ra
một trong các quyết định sau đây:
a)
Đưa vụ án ra xét xử;
b)
Trả hồ sơ để điều tra bổ sung;
c)
Tạm đình chỉ vụ án;
d)
Đình chỉ vụ án.
2. Trong trường hợp ra quyết
định đưa vụ án ra xét xử quy định
tại điểm a khoản 1 Điều này thì trong
thời hạn bảy ngày, kể từ ngày ra quyết
định, Toà án phải mở phiên toà xét xử vụ án.
Việc xét xử sơ thẩm được tiến hành
theo thủ tục chung.
3.
Trong trường hợp trả hồ sơ để
điều tra bổ sung hoặc tạm đình chỉ
vụ án quy định tại điểm b hoặc
điểm c khoản 1 Điều này thì Tòa án chuyển
hồ sơ cho Viện kiểm sát và vụ án
được giải quyết theo thủ tục chung.
4.
Trong trường hợp cần thiết, Tòa án cấp
sơ thẩm quyết định tạm giam bị cáo
để bảo đảm việc xét xử. Thời
hạn tạm giam không được quá mười
bốn ngày.
5.
Việc xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái
thẩm đối với vụ án đã xét xử sơ
thẩm theo thủ tục rút gọn được
tiến hành theo thủ tục chung.
CHƯƠNG XXXV
KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Điều
325. Người
có quyền khiếu nại
Cơ
quan, tổ chức, cá nhân có quyền khiếu nại
quyết định, hành vi tố tụng của cơ
quan, người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng khi có căn cứ cho rằng quyết định,
hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi
ích hợp pháp của mình.
Việc
kháng cáo đối với bản án, quyết định
sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật,
khiếu nại đối với bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật thì không
giải quyết theo quy định tại Chương này
mà được giải quyết theo quy định
tại các chương XXIII, XXIV, XXX và XXXI của Bộ luật
này.
Điều
326.
Quyền và nghĩa vụ của người khiếu
nại
1.
Người khiếu nại có quyền:
a)
Tự mình khiếu nại hoặc thông qua người
đại diện hợp pháp để khiếu nại;
b) Khiếu nại trong bất kỳ giai
đoạn nào của quá trình giải quyết vụ án hình
sự;
c) Rút khiếu nại trong bất kỳ
giai đoạn nào của quá trình giải quyết khiếu
nại;
d)
Được nhận văn bản trả lời về
việc giải quyết khiếu nại;
đ)
Được khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp
đã bị xâm phạm, được bồi
thường thiệt hại theo quy định của pháp
luật.
2.
Người khiếu nại có nghĩa vụ:
a)
Trình bày trung thực sự việc, cung cấp thông tin, tài
liệu cho người giải quyết khiếu nại;
chịu trách nhiệm trước pháp luật về
nội dung trình bày và việc cung cấp các thông tin, tài
liệu đó;
b)
Chấp hành kết quả giải quyết khiếu
nại.
Điều
327.
Quyền và nghĩa vụ của người bị
khiếu nại
1.
Người bị khiếu nại có quyền:
a)
Đưa ra bằng chứng về tính hợp pháp của
quyết định, hành vi tố tụng bị khiếu
nại;
b)
Được nhận văn bản giải quyết
khiếu nại về quyết định, hành vi tố
tụng của mình.
2.
Người bị khiếu nại có nghĩa vụ:
a)
Giải trình về quyết định, hành vi tố
tụng bị khiếu nại, cung cấp các thông tin, tài
liệu liên quan khi cơ quan, tổ chức, cá nhân có
thẩm quyền yêu cầu;
b)
Chấp hành kết quả giải quyết khiếu
nại;
c)
Bồi thường thiệt hại, khắc phục
hậu quả do quyết định, hành vi tố tụng
trái pháp luật của mình gây ra theo quy định của
pháp luật.
Điều
328.
Thời hiệu khiếu nại
Thời
hiệu khiếu nại là mười lăm ngày, kể
từ ngày nhận hoặc biết được quyết
định, hành vi tố tụng mà người khiếu
nại cho rằng có vi phạm pháp luật.
Trong trường hợp vì ốm
đau, thiên tai, địch hoạ, đi công tác, học
tập ở nơi xa hoặc vì những trở ngại
khách quan khác mà người khiếu nại không thực
hiện được quyền khiếu nại theo
đúng thời hiệu, thì thời gian có trở ngại
đó không tính vào thời hiệu khiếu nại.
Điều
329. Thẩm
quyền và thời hạn giải quyết khiếu
nại đối với Điều tra viên, Phó Thủ trưởng
và Thủ trưởng Cơ quan điều tra
Khiếu
nại quyết định, hành vi tố tụng của
Điều tra viên, Phó Thủ trưởng Cơ quan
điều tra do Thủ trưởng Cơ quan điều
tra xem xét, giải quyết trong thời hạn bảy ngày,
kể từ ngày nhận được khiếu nại.
Nếu không đồng ý với kết quả giải
quyết thì người khiếu nại có quyền
khiếu nại đến Viện kiểm sát cùng cấp.
Trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận
được khiếu nại, Viện kiểm sát cùng
cấp phải xem xét, giải quyết. Viện kiểm sát
cùng cấp có thẩm quyền giải quyết cuối
cùng.
Khiếu
nại quyết định, hành vi tố tụng của
Thủ trưởng Cơ quan điều tra và các quyết
định tố tụng của Cơ quan điều tra
đã được Viện kiểm sát phê chuẩn do
Viện kiểm sát cùng cấp giải quyết trong
thời hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận
được khiếu nại. Nếu không đồng ý với
kết quả giải quyết thì người khiếu
nại có quyền khiếu nại đến Viện
kiểm sát cấp trên trực tiếp. Trong thời hạn
mười lăm ngày, kể từ ngày nhận
được khiếu nại, Viện kiểm sát cấp
trên trực tiếp phải xem xét, giải quyết.
Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có thẩm
quyền giải quyết cuối cùng.
Điều
330.
Thẩm quyền và thời hạn giải quyết
khiếu nại đối với Kiểm sát viên, Phó
Viện trưởng và Viện trưởng Viện
kiểm sát
Khiếu
nại quyết định, hành vi tố tụng của
Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên
do Viện trưởng Viện kiểm sát giải
quyết trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày
nhận được khiếu nại. Nếu không
đồng ý với kết quả giải quyết thì
người khiếu nại có quyền khiếu nại
đến Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp.
Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ
ngày nhận được khiếu nại, Viện
kiểm sát cấp trên trực tiếp phải xem xét,
giải quyết. Viện kiểm sát cấp trên trực
tiếp có thẩm quyền giải quyết cuối cùng.
Khiếu nại quyết
định, hành vi tố tụng của Viện
trưởng Viện kiểm sát do Viện kiểm sát
cấp trên trực tiếp giải quyết trong thời
hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận
được khiếu nại. Viện kiểm sát cấp
trên trực tiếp có thẩm quyền giải quyết
cuối cùng.
Điều
331.
Thẩm quyền và thời hạn giải quyết
khiếu nại đối với Thẩm phán, Phó Chánh án và
Chánh án Toà án
Khiếu
nại quyết định, hành vi tố tụng của
Thẩm phán, Phó Chánh án trước khi mở phiên toà do Chánh
án Toà án giải quyết trong thời hạn bảy ngày,
kể từ ngày nhận được khiếu nại.
Nếu không đồng ý với kết quả giải
quyết thì người khiếu nại có quyền
khiếu nại đến Toà án cấp trên trực tiếp.
Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ
ngày nhận được khiếu nại, Toà án cấp
trên trực tiếp phải xem xét, giải quyết. Toà án
cấp trên trực tiếp có thẩm quyền giải
quyết cuối cùng.
Khiếu nại quyết định, hành
vi tố tụng của Chánh án Toà án trước khi mở
phiên tòa do Toà án cấp trên trực tiếp giải quyết
trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ
ngày nhận được khiếu nại. Toà án cấp
trên trực tiếp có thẩm quyền giải quyết
cuối cùng.
Điều
332. Thẩm
quyền và thời hạn giải quyết khiếu
nại đối với người có thẩm quyền
tiến hành một số hoạt động điều
tra
Khiếu
nại quyết định, hành vi tố tụng của
những người có thẩm quyền tiến hành
một số hoạt động điều tra do Viện
kiểm sát có thẩm quyền truy tố giải quyết
trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận
được khiếu nại. Nếu không đồng ý
với kết quả giải quyết thì người
khiếu nại có quyền khiếu nại đến
Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp. Trong
thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày
nhận được khiếu nại, Viện kiểm
sát cấp trên trực tiếp phải xem xét, giải
quyết. Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có
thẩm quyền giải quyết cuối cùng.
Khiếu
nại quyết định tố tụng đã
được Viện kiểm sát phê chuẩn do Viện
kiểm sát đã phê chuẩn quyết định đó
giải quyết trong thời hạn bảy ngày, kể
từ ngày nhận được khiếu nại. Nếu
không đồng ý với kết quả giải quyết
thì người khiếu nại có quyền khiếu nại
đến Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp.
Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ
ngày nhận được khiếu nại, Viện
kiểm sát cấp trên trực tiếp phải xem xét,
giải quyết. Viện kiểm sát cấp trên trực
tiếp có thẩm quyền giải quyết cuối cùng.
Điều
333.
Thời hạn giải quyết khiếu nại liên quan
đến việc áp dụng biện pháp bắt, tạm
giữ, tạm giam
Khiếu
nại liên quan đến việc áp dụng biện pháp
bắt, tạm giữ, tạm giam phải được
Viện kiểm sát xem xét, giải quyết ngay. Trong
trường hợp cần phải có thời gian
để xác minh thêm thì thời hạn giải quyết
không được quá ba ngày, kể từ ngày nhận
được khiếu nại. Nếu không đồng ý
với kết quả giải quyết thì người
khiếu nại có quyền khiếu nại đến
Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp. Trong
thời hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận
được khiếu nại, Viện kiểm sát
phải xem xét, giải quyết. Viện kiểm sát cấp
trên trực tiếp có thẩm quyền giải quyết
cuối cùng.
Điều
334.
Người có quyền tố cáo
Công
dân có quyền tố cáo với cơ quan, cá nhân có thẩm
quyền về hành vi vi phạm pháp luật của bất
kỳ người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng nào gây thiệt hại hoặc đe doạ gây
thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền,
lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ
chức.
Điều
335. Quyền
và nghĩa vụ của người tố cáo
1.
Người tố cáo có quyền:
a)
Gửi đơn hoặc trực tiếp tố cáo với
cơ quan, cá nhân có thẩm quyền;
b)
Yêu cầu giữ bí mật họ tên, địa chỉ,
bút tích của mình;
c)
Yêu cầu được thông báo kết quả giải
quyết tố cáo;
d)
Yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng bảo vệ khi bị đe doạ, trù dập,
trả thù.
2.
Người tố cáo có nghĩa vụ:
a)
Trình bày trung thực về nội dung tố cáo;
b)
Nêu rõ họ tên, địa chỉ của mình;
c)
Chịu trách nhiệm trước pháp luật về
việc tố cáo sai sự thật.
Điều
336. Quyền
và nghĩa vụ của người bị tố cáo
1.
Người bị tố cáo có quyền:
a)
Được thông báo về nội dung tố cáo;
b) Đưa ra bằng chứng để
chứng minh nội dung tố cáo là không đúng sự
thật;
c)
Được khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp
bị xâm phạm, được phục hồi danh
dự, được bồi thường thiệt
hại do việc tố cáo không đúng gây ra;
d)
Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền xử lý người tố cáo sai sự thật.
2.
Người bị tố cáo có nghĩa vụ:
a)
Giải trình về hành vi bị tố cáo; cung cấp thông
tin, tài liệu liên quan khi cơ quan, cá nhân có thẩm
quyền yêu cầu;
b)
Chấp hành kết quả xử lý tố cáo của cơ
quan, cá nhân có thẩm quyền;
c)
Bồi thường thiệt hại, khắc phục
hậu quả do hành vi trái pháp luật của mình gây ra.
Điều
337. Thẩm
quyền và thời hạn giải quyết tố cáo
1.
Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của người
có thẩm quyền tiến hành tố tụng thuộc
cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng nào
thì người đứng đầu cơ quan đó có
trách nhiệm giải quyết.
Trong
trường hợp người bị tố cáo là Thủ
trưởng Cơ quan điều tra, Viện
trưởng Viện kiểm sát, Chánh án Toà án thì Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát, Toà án cấp trên
trực tiếp có trách nhiệm giải quyết. Tố cáo
hành vi tố tụng của những người có
thẩm quyền tiến hành một số hoạt
động điều tra do Viện kiểm sát có thẩm
quyền truy tố xem xét, giải quyết.
Thời
hạn giải quyết tố cáo không quá sáu mươi
ngày, kể từ ngày thụ lý; đối với vụ
việc phức tạp thì thời hạn giải quyết
tố cáo có thể dài hơn, nhưng không quá chín
mươi ngày.
2.
Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật có dấu hiệu
tội phạm thì được giải quyết theo quy
định tại Điều 103 của Bộ luật
này.
3.
Tố cáo liên quan đến hành vi bắt, tạm giữ,
tạm giam phải được Viện kiểm sát xem
xét, giải quyết ngay. Trong trường hợp phải
xác minh thêm thì thời hạn không quá ba ngày.
Điều
338. Trách nhiệm của người có thẩm
quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo
Cơ
quan, cá nhân có thẩm quyền trong phạm vi nhiệm
vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tiếp
nhận, giải quyết kịp thời, đúng pháp
luật khiếu nại, tố cáo và thông báo bằng văn
bản kết quả giải quyết cho người
đã khiếu nại, tố cáo biết; xử lý nghiêm minh
người vi phạm; áp dụng biện pháp cần
thiết nhằm ngăn chặn thiệt hại có thể
xảy ra; bảo đảm kết quả giải
quyết được thi hành nghiêm chỉnh và phải chịu
trách nhiệm trước pháp luật về việc
giải quyết của mình.
Người
có thẩm quyền giải quyết khiếu nại,
tố cáo mà không giải quyết, thiếu trách nhiệm
trong việc giải quyết, giải quyết trái pháp
luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm
mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu
trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì
phải bồi thường theo quy định của pháp
luật.
Điều
339. Nhiệm vụ, quyền hạn của
Viện kiểm sát khi kiểm sát việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự
1.
Viện kiểm sát yêu cầu Cơ quan điều tra, Tòa
án cùng cấp và cấp dưới, Bộ đội biên
phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh
sát biển, các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân
đội nhân dân được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều
tra:
a)
Ra văn bản giải quyết khiếu nại, tố
cáo theo quy định tại Chương này;
b)
Kiểm tra việc giải quyết khiếu nại,
tố cáo của cấp mình và cấp dưới; thông báo
kết quả kiểm tra cho Viện kiểm sát;
c)
Cung cấp hồ sơ, tài liệu liên quan đến
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo cho
Viện kiểm sát.
2.
Viện kiểm sát trực tiếp kiểm sát việc
giải quyết khiếu nại, tố cáo tại Cơ
quan điều tra, Tòa án, Bộ đội biên phòng, Hải
quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và
các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân
được giao nhiệm vụ tiến hành một
số hoạt động điều tra.
PHẦN THỨ TÁM
HỢP TÁC QUỐC TẾ
CHƯƠNG XXXVI
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VỀ HỢP TÁC QUỐC
TẾ
TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Điều
340. Nguyên
tắc hợp tác quốc tế trong hoạt động
tố tụng hình sự
Hợp
tác quốc tế trong hoạt động tố tụng
hình sự giữa các cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam với các cơ quan có thẩm
quyền tương ứng của nước ngoài
được thực hiện trên nguyên tắc tôn
trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn
lãnh thổ quốc gia, không can thiệp vào công việc
nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi,
phù hợp với Hiến pháp của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và những nguyên
tắc cơ bản của pháp luật quốc tế.
Hợp
tác quốc tế trong hoạt động tố tụng
hình sự được tiến hành phù hợp với các
điều ước quốc tế mà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết
hoặc gia nhập và quy định của pháp luật
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Trong
trường hợp nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam chưa ký kết hoặc chưa
gia nhập các điều ước quốc tế có liên
quan thì việc hợp tác quốc tế trong hoạt
động tố tụng hình sự được
thực hiện trên nguyên tắc có đi có lại nhưng
không trái pháp luật của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, pháp luật quốc
tế và tập quán quốc tế.
Điều
341.
Thực hiện tương trợ tư pháp
Khi
thực hiện tương trợ tư pháp, cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
áp dụng những quy định của điều
ước quốc tế có liên quan mà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc
gia nhập và quy định của Bộ luật này.
Điều
342.
Từ chối thực hiện yêu cầu tương
trợ tư pháp
Các
cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng
của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam có thể từ chối thực hiện yêu
cầu tương trợ tư pháp trong hoạt
động tố tụng hình sự, nếu thuộc
một trong những trường hợp sau đây:
1.
Yêu cầu tương trợ tư pháp không phù hợp
với các điều ước quốc tế mà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
ký kết hoặc gia nhập và pháp luật của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam;
2.
Việc thực hiện yêu cầu tương trợ
tư pháp gây phương hại đến chủ
quyền, an ninh quốc gia hoặc lợi ích quan trọng
khác của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam.
CHƯƠNG XXXVII
DẪN ĐỘ VÀ CHUYỂN GIAO HỒ SƠ, TÀI LIỆU,
VẬT CHỨNG CỦA VỤ ÁN
Điều
343.
Dẫn độ để truy cứu trách nhiệm hình
sự hoặc thi hành án
Căn cứ vào các điều ước
quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập
hoặc theo nguyên tắc có đi có lại, các cơ quan có
thẩm quyền
tiến hành tố tụng của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam có thể:
1.
yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tương ứng
của nước ngoài dẫn độ một
người có hành vi phạm tội hoặc bị kết
án hình sự mà bản án đã có hiệu lực pháp
luật cho nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam để truy cứu trách nhiệm hình sự
hoặc để chấp hành hình phạt;
2.
Thực hiện việc dẫn độ người
nước ngoài có hành vi phạm tội hoặc bị
kết án hình sự mà bản án đã có hiệu lực pháp
luật đang ở trên lãnh thổ nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam cho quốc gia yêu
cầu để truy cứu trách nhiệm hình sự
hoặc để chấp hành hình phạt.
Điều
344.
Từ chối dẫn độ
1.
Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng
của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam từ chối dẫn độ, nếu
thuộc một trong những trường hợp sau
đây:
a)
Người bị yêu cầu dẫn độ là công dân
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
b)
Theo quy định của pháp luật nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì người
bị yêu cầu dẫn độ không thể bị truy
cứu trách nhiệm hình sự hoặc chấp hành hình
phạt do đã hết thời hiệu hoặc vì những
lý do hợp pháp khác;
c)
Người bị yêu cầu dẫn độ để
truy cứu trách nhiệm hình sự đã bị Toà án
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
kết tội bằng bản án đã có hiệu lực
pháp luật về hành vi phạm tội được nêu
trong yêu cầu dẫn độ hoặc vụ án đã
bị đình chỉ theo quy định của Bộ luật
này;
d)
Người bị yêu cầu dẫn độ là
người đang cư trú ở Việt Nam vì lý do có
khả năng bị truy bức ở quốc gia yêu
cầu dẫn độ do có sự phân biệt về
chủng tộc, tôn giáo, quốc tịch, dân tộc, thành
phần xã hội hoặc quan điểm chính trị.
2. Cơ quan có thẩm quyền tiến hành
tố tụng của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt
a)
Theo pháp luật hình sự của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt
b)
Người bị yêu cầu dẫn độ đang
bị truy cứu trách nhiệm hình sự ở Việt
3.
Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng
của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt
Điều
345.
Việc chuyển giao hồ sơ, vật chứng của
vụ án
1.
Đối với vụ án có người nước ngoài
phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, nếu việc tiến
hành tố tụng không thể thực hiện
được vì người đó đã ra nước
ngoài thì cơ quan có thẩm quyền tố tụng đang
thụ lý vụ án có thể chuyển hồ sơ vụ án
đến Viện kiểm sát nhân dân tối cao để
làm thủ tục chuyển giao cho cơ quan có thẩm
quyền tương ứng của nước ngoài.
2.
Khi chuyển giao hồ sơ vụ án cho cơ quan có
thẩm quyền tương ứng của nước
ngoài, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt
Điều
346.
Việc giao nhận, chuyển giao tài liệu, đồ
vật, tiền liên quan đến vụ án
1.
Việc giao nhận tài liệu liên quan đến vụ án
được tiến hành theo quy định của
điều ước quốc tế mà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
2.
Việc chuyển giao đồ vật, tiền liên quan
đến vụ án ra ngoài lãnh thổ nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Bộ luật này đã được
Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 4 thông qua
ngày 26 tháng 11 năm 2003.