CHÍNH PHỦ |
CỘNG HOÀ XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT |
Số:
70/2001/NĐ-CP |
Hà Nội, ngày 03
tháng 10 năm 2001 |
NGHỊ ĐỊNH
CỦA CHÍNH PHỦ SỐ
70/2001/NĐ-CP NGÀY 03 THÁNG 10 NĂM 2001 QUY ĐỊNH CHI
TIẾT THI HÀNH LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật Tổ
chức Chính phủ ngày 30 tháng 9 năm 1992;
Căn
cứ Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000;
Theo
đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tư
pháp,
NGHỊ ĐỊNH:
Chương 1:
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1. Đối tượng, phạm vi điều
chỉnh của Nghị định
Nghị định này quy
định chi tiết thi hành Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2000, trừ các quy định về đăng ký
kết hôn, đăng ký nuôi con nuôi, hôn nhân và gia đình có
yếu tố nước ngoài, việc áp dụng Luật
Hôn nhân và gia đình đối với các dân tộc
thiểu số, xác định cha, mẹ cho con
được sinh ra theo phương pháp khoa học,
việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực hôn nhân và gia đình được quy định
trong các văn bản quy phạm pháp luật khác của
Chính phủ.
Điều 2. Tư vấn, hoà giải về hôn nhân và gia
đình
1. Các cơ quan, tổ chức có
trách nhiệm thực hiện tư vấn miễn phí
về hôn nhân và gia đình cho các thành viên của mình.
Trung tâm trợ giúp pháp lý của Nhà
nước thực hiện tư vấn miễn phí về
hôn nhân và gia đình theo quy định của pháp luật.
2. Các cơ quan, tổ chức có
trách nhiệm hoà giải mâu thuẫn về hôn nhân và gia
đình cho các thành viên của mình, trừ các vụ việc
không được hoà giải theo quy định của
pháp luật.
3. Các tổ chức chính trị -
xã hội ở cơ sở, các tổ hoà giải cơ
sở có trách nhiệm hoà giải mâu thuẫn về hôn nhân
và gia đình trên địa bàn dân cư; thực hiện các
biện pháp thuyết phục, giáo dục đối
với cá nhân có các hành vi vi phạm pháp luật về hôn
nhân và gia đình.
Điều 3. Tuổi kết hôn
Chương 2:
VỀ QUAN HỆ GIỮA VỢ VÀ CHỒNG,
GIỮA CHA MẸ VÀ CON
Điều 4. Việc xác lập, thực hiện, chấm
dứt các giao dịch dân sự liên quan đến tài
sản của vợ, chồng
1. Trong trường hợp
việc xác lập, thực hiện hoặc chấm dứt
các giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung
có giá trị lớn của vợ chồng hoặc tài
sản chung là nguồn sống duy nhất của gia
đình, việc xác lập, thực hiện hoặc
chấm dứt các giao dịch dân sự liên quan đến
định đoạt tài sản thuộc sở hữu
riêng của một bên vợ hoặc chồng nhưng tài
sản đó đã đưa vào sử dụng chung mà hoa
lợi, lợi tức phát sinh là nguồn sống duy
nhất của gia đình mà pháp luật quy định giao
dịch đó phải tuân theo hình thức nhất
định, thì sự thoả thuận của vợ
chồng cũng phải tuân theo hình thức đó (lập
thành văn bản có chữ ký của vợ, chồng
hoặc phải có công chứng, chứng thực...)
2. Đối với các giao
dịch dân sự mà pháp luật không có quy định
phải tuân theo hình thức nhất định, nhưng
giao dịch đó có liên quan đến tài sản chung có giá
trị lớn hoặc là nguồn sống duy nhất
của gia đình hoặc giao dịch đó có liên quan
đến việc định đoạt tài sản
thuộc sở hữu riêng của một bên vợ
hoặc chồng nhưng đã đưa vào sử dụng
chung và hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản
đó là nguồn sống duy nhất của gia đình, thì
việc xác lập, thực hiện hoặc chấm dứt
các giao dịch đó cũng phải có sự thoả
thuận bằng văn bản của vợ chồng.
3. Tài sản chung có giá trị
lớn của vợ chồng nói tại khoản 1,
khoản 2 Điều này được xác định
căn cứ vào phần giá trị của tài sản đó
trong khối tài sản chung của vợ chồng.
4. Trong trường hợp vợ
hoặc chồng xác lập, thực hiện hoặc
chấm dứt các giao dịch dân sự liên quan đến
tài sản chung quy định tại khoản 1, khoản 2
Điều này mà không có sự đồng ý của một
bên, thì bên đó có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố giao
dịch đó vô hiệu theo quy định tại
Điều 139 của Bộ luật Dân sự và hậu
quả pháp lý được giải quyết theo quy
định tại Điều 146 của Bộ luật Dân
sự.
Điều 5. Đăng ký tài sản thuộc sở hữu
chung của vợ chồng
1. Các tài sản thuộc sở
hữu chung của vợ chồng khi đăng ký
quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ
và chồng theo quy định tại khoản 2 Điều
27 của Luật Hôn nhân và gia đình bao gồm: nhà ở,
quyền sử dụng đất và những tài sản
khác mà pháp luật quy định phải đăng ký
quyền sở hữu.
2. Việc đăng ký các tài
sản, quyền tài sản thuộc sở hữu chung
của vợ chồng phải ghi tên của cả vợ
và chồng theo quy định tại khoản 1 Điều
này được thực hiện kể từ ngày
Nghị định này có hiệu lực.
3. Trong trường hợp tài
sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng
đã đăng ký quyền sở hữu trước ngày
Nghị định này có hiệu lực mà chỉ ghi tên
của một bên vợ hoặc chồng, thì vợ
chồng có thể yêu cầu cơ quan nhà nước có
thẩm quyền cấp lại giấy tờ đăng
ký quyền sở hữu tài sản đó để ghi tên
của cả vợ và chồng; nếu vợ chồng
không yêu cầu cấp lại giấy tờ đăng ký
quyền sở hữu tài sản, thì tài sản đó vẫn
thuộc sở hữu chung của vợ chồng; nếu
có tranh chấp, bên nào cho đó là tài sản thuộc sở
hữu riêng của mình, thì có nghĩa vụ chứng minh.
4. Trong trường hợp vợ
chồng ly hôn hoặc chia tài sản chung trong thời
kỳ hôn nhân thì bên được chia phần tài sản
bằng hiện vật đã đăng ký quyền sở
hữu hoặc quyền sử dụng mà có ghi tên vợ và
chồng có quyền yêu cầu cơ quan đăng ký tài
sản cấp lại giấy tờ đăng ký quyền
sở hữu hoặc quyền sử dụng tài sản.
5. Bộ Tư pháp phối hợp
với các Bộ, cơ quan hữu quan hướng dẫn
thi hành các quy định tại Điều này.
Điều 6. Chia tài sản chung của vợ, chồng trong
thời kỳ hôn nhân
1. Thoả thuận chia tài sản
chung của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân quy
định tại khoản 1 Điều 29 của Luật
Hôn nhân và gia đình phải được lập thành
văn bản và ghi rõ các nội dung sau đây:
a) Lý do chia tài sản;
b) Phần tài sản chia (bao
gồm bất động sản, động sản, các
quyền tài sản); trong đó cần mô tả rõ những
tài sản được chia hoặc giá trị phần tài
sản được chia;
c) Phần tài sản còn lại
không chia, nếu có;
d) Thời điểm có hiệu
lực của việc chia tài sản chung;
đ) Các nội dung khác, nếu có.
2. Văn bản thoả thuận
chia tài sản chung của vợ chồng phải ghi rõ ngày,
tháng, năm lập văn bản và phải có chữ ký
của cả vợ và chồng; văn bản thoả
thuận có thể có người làm chứng hoặc
được công chứng, chứng thực theo yêu
cầu của vợ chồng hoặc theo quy định
của pháp luật.
3. Trong trường hợp vợ,
chồng không thoả thuận được về
việc chia tài sản chung, thì cả hai bên hoặc một
bên có quyền yêu cầu Toà án giải quyết.
Điều 7. Thời
điểm có hiệu lực của việc chia tài sản
chung
1. Trong trường hợp văn
bản thoả thuận chia tài sản chung của vợ
chồng không xác định rõ thời điểm có
hiệu lực của việc chia tài sản, thì hiệu
lực được tính từ ngày, tháng, năm lập
văn bản.
2. Trong trường hợp văn
bản thoả thuận chia tài sản chung của vợ
chồng được công chứng hoặc chứng
thực theo yêu cầu của vợ chồng, thì hiệu
lực được tính từ ngày xác định trong
văn bản thoả thuận; nếu văn bản không
xác định ngày có hiệu lực đó, thì hiệu
lực được tính từ ngày văn bản đó
được công chứng, chứng thực.
3. Trong trường hợp văn
bản thoả thuận chia tài sản chung của vợ
chồng phải công chứng, chứng thực theo quy
định của pháp luật, thì hiệu lực
được tính từ ngày văn bản đó
được công chứng, chứng thực.
4. Trong trường hợp Toà án
cho chia tài sản chung theo quy định tại khoản 3
Điều 6 của Nghị định này, thì việc chia
tài sản chung của vợ chồng có hiệu lực
kể từ ngày quyết định cho chia tài sản chung
của Toà án có hiệu lực pháp luật.
Điều 8. Hậu quả
chia tài sản chung của vợ, chồng trong thời
kỳ hôn nhân
1. Hoa lợi, lợi tức phát
sinh từ tài sản đã được chia thì thuộc
sở hữu riêng của mỗi người, trừ
trường hợp vợ chồng có thoả thuận khác.
Hoa lợi, lợi tức phát sinh
từ phần tài sản chung còn lại vẫn thuộc sở
hữu chung của vợ, chồng.
2. Thu nhập do lao động,
hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu
nhập hợp pháp khác của mỗi bên sau khi chia tài
sản chung là tài sản riêng của vợ, chồng,
trừ trường hợp vợ chồng có thoả
thuận khác.
Điều 9. Khôi phục chế độ tài sản chung
của vợ chồng
1. Trong trường hợp vợ
chồng đã chia tài sản chung và sau đó muốn khôi
phục chế độ tài sản chung, thì vợ
chồng phải thoả thuận bằng văn bản có
ghi rõ các nội dung sau đây:
a) Lý do khôi phục chế
độ tài sản chung;
b) Phần tài sản thuộc
sở hữu riêng của mỗi bên;
c) Phần tài sản thuộc
sở hữu chung của vợ chồng, nếu có;
d) Thời điểm có hiệu
lực của việc khôi phục chế độ tài
sản chung;
đ) Các nội dung khác, nếu có.
2. Văn bản thoả thuận
phải ghi rõ ngày, tháng, năm lập văn bản và
phải có chữ ký của cả vợ và chồng; văn
bản thoả thuận có thể có người làm
chứng hoặc được công chứng, chứng
thực theo yêu cầu của vợ chồng hoặc theo
quy định của pháp luật.
Điều 10. Thời
điểm có hiệu lực của việc khôi phục
chế độ tài sản chung
1. Trong trường hợp văn
bản thoả thuận khôi phục chế độ tài
sản chung của vợ chồng không xác định rõ
thời điểm có hiệu lực của việc khôi
phục chế độ tài sản chung, thì hiệu
lực được tính từ ngày, tháng, năm lập
văn bản.
2. Trong trường hợp văn
bản thoả thuận chia tài sản chung của vợ
chồng được công chứng hoặc chứng
thực theo yêu cầu của vợ chồng, thì văn
bản thoả thuận khôi phục chế độ tài
sản chung của vợ chồng cũng phải
được công chứng hoặc chứng thực và
việc khôi phục chế độ tài sản chung có hiệu
lực kể từ ngày xác định trong văn bản
thoả thuận; nếu văn bản không xác định
ngày có hiệu lực đó, thì hiệu lực
được tính từ ngày văn bản đó
được công chứng, chứng thực.
3. Trong trường hợp văn
bản thoả thuận chia tài sản chung của vợ
chồng phải công chứng, chứng thực theo quy
định của pháp luật, thì văn bản thoả
thuận khôi phục chế độ tài sản chung
cũng phải được công chứng, chứng
thực theo quy định của pháp luật và có hiệu
lực kể từ ngày được công chứng,
chứng thực.
Điều 11. Việc chia tài sản chung bị vô hiệu
Theo yêu cầu của những
người có quyền, lợi ích liên quan thì việc chia
tài sản chung của vợ chồng nhằm trốn tránh
thực hiện các nghĩa vụ về tài sản sau
đây bị Toà án tuyên bố là vô hiệu:
1. Nghĩa vụ nuôi dưỡng,
cấp dưỡng người khác theo quy định
của pháp luật.
2. Nghĩa vụ bồi
thường thiệt hại.
3. Nghĩa vụ thanh toán khi bị
Toà án tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
4. Nghĩa vụ nộp thuế và
nghĩa vụ tài chính khác đối với Nhà nước.
5. Nghĩa vụ trả nợ cho
người khác.
6. Các nghĩa vụ khác về tài
sản theo quy định của pháp luật.
Điều 12. Hạn chế quyền yêu cầu chia di sản
thừa kế của vợ, chồng khi một bên chết
Việc hạn chế quyền yêu
cầu chia di sản thừa kế của vợ, chồng
khi một bên chết theo quy định tại khoản 3
Điều 31 của Luật Hôn nhân và gia đình
được thực hiện như sau:
1. Thời hạn chưa cho chia di
sản thừa kế theo quy định tại khoản 3
Điều 31 của Luật Hôn nhân và gia đình không quá 3
năm.
Việc chia di sản ảnh
hưởng nghiêm trọng đến đời sống
của bên còn sống và gia đình là trường hợp
nếu chia di sản thì bên còn sống và gia đình không
thể duy trì cuộc sống bình thường do không có
chỗ ở, mất tư liệu sản xuất duy
nhất để tạo thu nhập hoặc vì các lý do chính
đáng khác.
2. Trong trường hợp
người thừa kế của bên vợ hoặc bên
chồng mà túng thiếu, không có khả năng lao
động, không có tài sản để tự nuôi mình và không
có người khác cấp dưỡng, thì Toà án xem xét,
quyết định về việc cho chia di sản
thừa kế trên cơ sở cân nhắc quyền lợi
của bên vợ hoặc bên chồng còn sống và quyền
lợi của những người thừa kế khác.
3. Trong trường hợp Toà án
chưa cho chia di sản theo quy định tại khoản
1 Điều này, thì bên còn sống chỉ có quyền sử
dụng, khai thác để hưởng hoa lợi, lợi
tức phát sinh từ di sản và phải giữ gìn,
bảo quản di sản như đối với tài
sản của chính mình; không được thực
hiện các giao dịch có liên quan đến việc
định đoạt di sản, nếu không
được sự đồng ý của những người
thừa kế khác.
Trong trường hợp bên còn
sống thực hiện các giao dịch nhằm tẩu tán,
phá tán hoặc làm hư hỏng, mất mát di sản, thì
những người thừa kế khác có quyền yêu
cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô
hiệu và có quyền yêu cầu chia di sản; bên còn
sống phải bồi thường thiệt hại cho
những người thừa kế khác theo quy định
của pháp luật.
4. Những người thừa
kế của bên vợ hoặc bên chồng đã chết
có quyền yêu cầu chia di sản trong trường
hợp chưa hết thời hạn quy định
tại khoản 1 Điều này mà bên còn sống kết hôn
với người khác.
Điều 13. Việc nhập tài sản riêng của một bên
vợ hoặc chồng vào tài sản chung
1. Việc nhập tài sản là nhà
ở, quyền sử dụng đất và các tài sản
khác có giá trị lớn thuộc sở hữu riêng của
một bên vợ hoặc chồng vào tài sản chung của
vợ chồng theo quy định tại khoản 2
Điều 32 của Luật Hôn nhân và gia đình phải
được lập thành văn bản, có chữ ký
của cả vợ và chồng. Văn bản đó có
thể được công chứng hoặc chứng
thực theo quy định của pháp luật.
2. Việc nhập tài sản riêng
của một bên vào khối tài sản chung của vợ
chồng nhằm trốn tránh thực hiện các nghĩa
vụ riêng của bên đó về tài sản thì vô hiệu
theo quy định tại Điều 11 của Nghị
định này.
Điều 14. Thực hiện nghĩa vụ và quyền chăm
sóc, nuôi dưỡng cha mẹ
Việc thực hiện nghĩa
vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ
của con quy định tại Điều 35 của
Luật Hôn nhân và gia đình được thực hiện
như sau:
1. Trong trường hợp gia
đình có nhiều con, thì các con thoả thuận về
người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cha
mẹ và thoả thuận đó phải được
sự đồng ý của cha mẹ; các con không trực
tiếp nuôi dưỡng cha mẹ có nghĩa vụ và
quyền thăm nom, chăm sóc, cấp dưỡng cho cha
mẹ theo quy định của pháp luật.
2. Trong trường hợp các con
không thoả thuận được với nhau về
người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cha
mẹ theo quy định tại khoản 1 Điều này,
thì có quyền yêu cầu Toà án giải quyết.
Điều 15. Người có quyền yêu cầu Toà án hạn
chế quyền của cha, mẹ đối với con
chưa thành niên
Người thân thích của
người chưa thành niên quy định tại khoản
1 Điều 42 của Luật Hôn nhân và gia đình bao
gồm: Ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại; anh
ruột, chị ruột; cụ nội, cụ ngoại; bác
ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột
của người chưa thành niên.
Chương 3:
VỀ CẤP DƯỠNG
Điều 16. Người có khả năng thực tế
để thực hiện nghĩa vụ cấp
dưỡng và nhu cầu thiết yếu của
người được cấp dưỡng
1. Người có khả năng
thực tế để thực hiện nghĩa vụ
cấp dưỡng được quy định tại
các điều 51, 52 và 53 của Luật Hôn nhân và gia đình
là người có thu nhập thường xuyên hoặc tuy
không có thu nhập thường xuyên nhưng còn tài sản
sau khi đã trừ đi chi phí thông thường cần
thiết cho cuộc sống của người đó.
2. Nhu cầu thiết yếu
của người được cấp dưỡng theo
quy định tại các điều 51, 52 và 53 của
Luật này được xác định căn cứ vào
mức sinh hoạt trung bình tại địa phương
nơi người được cấp dưỡng
cư trú, bao gồm các chi phí thông thường cần
thiết về ăn, ở, mặc, học, khám chữa
bệnh và các chi phí thông thường cần thiết khác
để bảo đảm cuộc sống của
người được cấp dưỡng.
3. Trong trường hợp
nhiều người cùng có nghĩa vụ cấp
dưỡng cho một người, mà trong số đó có
người có khả năng thực tế và có
người không có khả năng thực tế để
thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy
định tại khoản 1 Điều này, thì
người có khả năng thực tế phải
thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho
người được cấp dưỡng theo quy
định tại Điều 52 của Luật Hôn nhân và
gia đình.
Điều 17. Thoả thuận về việc cấp
dưỡng
Người có nghĩa vụ
cấp dưỡng và người được cấp
dưỡng hoặc người giám hộ của
người đó thoả thuận với nhau về
việc cấp dưỡng. Thỏa thuận về
việc cấp dưỡng có thể bằng miệng
hoặc lập thành văn bản, nêu rõ ngày người có
nghĩa vụ cấp dưỡng bắt đầu
thực hiện nghĩa vụ, mức cấp dưỡng
và phương thức thực hiện nghĩa vụ
cấp dưỡng, các thỏa thuận khác về việc
thay đổi mức hoặc phương thức cấp
dưỡng.
Điều 18. Phương thức thực hiện nghĩa
vụ cấp dưỡng, mức cấp dưỡng
1. Người có nghĩa vụ
cấp dưỡng và người được cấp
dưỡng hoặc người giám hộ của
người đó thoả thuận về phương
thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng
bằng tiền hoặc bằng tài sản. Nghĩa vụ
cấp dưỡng được ưu tiên thực
hiện theo phương thức định kỳ hàng
tháng, hàng quý, nửa năm hoặc hàng năm.
2. Việc thực hiện nghĩa
vụ cấp dưỡng theo phương thức cấp
dưỡng một lần quy định tại
Điều 54 của Luật Hôn nhân và gia đình
được thực hiện trong các trường
hợp sau đây:
a) Do người được
cấp dưỡng hoặc người giám hộ của
người đó thoả thuận với người có
nghĩa vụ cấp dưỡng;
b) Theo yêu cầu của
người có nghĩa vụ cấp dưỡng và
được Toà án chấp nhận;
c) Theo yêu cầu của
người được cấp dưỡng hoặc
người giám hộ của người đó và
được Toà án chấp nhận trong trường
hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng
thường xuyên có các hành vi phá tán tài sản hoặc
cố tình trốn tránh việc thực hiện nghĩa
vụ cấp dưỡng mà hiện có tài sản
để thực hiện nghĩa vụ cấp
dưỡng một lần;
d) Theo yêu cầu của
người trực tiếp nuôi con khi vợ chồng ly hôn
mà có thể trích từ phần tài sản được
chia của bên có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.
3. Theo yêu cầu của
người có nghĩa vụ cấp dưỡng, khoản
cấp dưỡng một lần có thể
được gửi tại ngân hàng hoặc
được giao cho người được cấp
dưỡng, người giám hộ của người
được cấp dưỡng quản lý, trừ
trường hợp các bên có thoả thuận khác.
4. Người được giao
quản lý khoản cấp dưỡng một lần có
trách nhiệm bảo quản tài sản đó như
đối với tài sản của chính mình và chỉ
được trích ra để bảo đảm các nhu
cầu thiết yếu của người được
cấp dưỡng.
Điều 19. Cấp
dưỡng bổ sung
Trong trường hợp
người được cấp dưỡng một
lần lâm vào tình trạng khó khăn trầm trọng do
bị tai nạn hoặc mắc bệnh hiểm nghèo mà
người đã thực hiện nghĩa vụ cấp
dưỡng có khả năng thực tế để
cấp dưỡng ở mức cao hơn, thì phải
cấp dưỡng bổ sung theo yêu cầu của
người được cấp dưỡng.
Điều 20. Buộc thực hiện nghĩa vụ cấp
dưỡng
1. Trong trường hợp
người có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy
định của Luật Hôn nhân và gia đình mà không
tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp
dưỡng, thì theo yêu cầu của các cơ quan, tổ
chức, cá nhân quy định tại Điều 55 của
Luật Hôn nhân và gia đình, Toà án ra quyết định buộc
người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải
thực hiện nghĩa vụ đó. Thời điểm
thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng do
người có nghĩa vụ cấp dưỡng và
người được cấp dưỡng thoả
thuận; nếu không thoả thuận được thì
thời điểm đó được tính từ ngày ghi
trong bản án, quyết định của Toà án.
2. Trong trường hợp
người có nghĩa vụ cấp dưỡng theo
quyết định của Toà án không tự nguyện
thực hiện nghĩa vụ của mình, thì người
được cấp dưỡng hoặc người
giám hộ của người đó có quyền yêu cầu
cơ quan thi hành án buộc người có nghĩa vụ
cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ
đó. Thời điểm thực hiện nghĩa vụ
cấp dưỡng được tính từ ngày ghi trong
bản án, quyết định của Toà án.
3. Theo quyết định của
Toà án, cơ quan, tổ chức trả tiền lương,
tiền công lao động, các thu nhập thường xuyên
khác cho người có nghĩa vụ cấp dưỡng có
trách nhiệm thực hiện việc khấu trừ
khoản cấp dưỡng để chuyển trả cho
người được cấp dưỡng hoặc
người giám hộ của người đó theo
đúng mức và phương thức cấp dưỡng
do người được cấp dưỡng hoặc
người giám hộ của người đó và
người có nghĩa vụ cấp dưỡng thoả
thuận hoặc theo mức và phương thức cấp
dưỡng do Toà án quyết định.
Chương 4:
VỀ XÁC ĐỊNH CHA, MẸ, CON; XÁC
ĐỊNH DÂN TỘC CỦA CON NUÔI
Điều 21. Xác định con chung của vợ chồng
1. Con sinh ra trong thời kỳ hôn
nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ
hôn nhân theo quy định tại khoản 1 Điều 63
của Luật Hôn nhân và gia đình được xác
định là con chung của vợ chồng.
Con sinh ra trước ngày
đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa
nhận cũng là con chung của vợ chồng.
2. Con sinh ra trong vòng 300 ngày, kể
từ ngày người chồng chết hoặc kể
từ ngày bản án, quyết định của Toà án
xử cho vợ chồng ly hôn có hiệu lực pháp
luật, thì được xác định là con chung của
hai người.
3. Trong trường hợp vợ
hoặc chồng không nhận đứa trẻ là con chung
của hai người quy định tại khoản 1 và
khoản 2 Điều này, thì phải có chứng cứ và
phải được Toà án xác định.
Điều 22. Xác định dân tộc của con nuôi
Việc xác định dân tộc
của con nuôi quy định tại khoản 2 Điều
75 của Luật Hôn nhân và gia đình được
thực hiện theo quy định sau đây:
1. Con nuôi được xác
định dân tộc theo dân tộc của cha, mẹ
đẻ. Trong trường hợp cha, mẹ đẻ
thuộc hai dân tộc khác nhau, thì dân tộc của
người con nuôi được xác định là dân
tộc của cha đẻ hoặc của mẹ
đẻ theo tập quán hoặc theo thoả thuận của
cha, mẹ đẻ.
2. Trong trường hợp không xác
định được cha, mẹ đẻ của
người con nuôi là ai, thì dân tộc của người
con nuôi được xác định theo dân tộc của
cha, mẹ nuôi; nếu cha, mẹ nuôi thuộc hai dân tộc
khác nhau, thì dân tộc của người con nuôi
được xác định theo dân tộc của cha nuôi
hoặc của mẹ nuôi theo tập quán hoặc theo
thoả thuận của cha, mẹ nuôi; nếu sau đó xác
định được cha, mẹ đẻ, thì dân
tộc của người con nuôi có thể được
xác định lại theo yêu cầu của người con
nuôi đó đã thành niên, yêu cầu của cha mẹ
đẻ hoặc của cha mẹ nuôi.
Chương 5:
VỀ LY HÔN
Điều 23. Quyền sử dụng đất là tài sản
riêng của vợ, chồng
Khi ly hôn, quyền sử dụng
đất mà mỗi bên có được trước khi
kết hôn do được chuyển nhượng,
chuyển đổi, thừa kế, nhận thế
chấp hoặc quyền sử dụng đất mà
mỗi bên được nhà nước giao,
được cho thuê trước khi kết hôn vẫn là
tài sản riêng của mỗi bên; quyền sử dụng
đất của bên nào vẫn thuộc về bên đó,
trừ trường hợp có thoả thuận khác.
Điều 24. Chia quyền sử dụng đất mà vợ,
chồng được Nhà nước giao
Sau khi kết hôn, quyền sử
dụng đất mà cả vợ và chồng hoặc
mỗi bên vợ hoặc chồng được Nhà
nước giao, kể cả giao khoán là tài sản chung
của vợ chồng; khi ly hôn, việc chia quyền
sử dụng đất đó được thực
hiện như sau:
1. Đối với quyền
sử dụng đất nông nghiệp để trồng
cây hàng năm, đất nuôi trồng thuỷ sản,
đất làm muối:
a) Trong trường hợp cả
vợ và chồng đều có nhu cầu sử dụng
đất và có điều kiện trực tiếp sử
dụng, thì quyền sử dụng đất
được chia theo thoả thuận của các bên;
nếu không thoả thuận được, thì yêu cầu
Toà án giải quyết theo quy định tại
Điều 95 của Luật Hôn nhân và gia đình;
b) Trong trường hợp chỉ
một bên có nhu cầu và có điều kiện trực
tiếp sử dụng đất, thì người đó có
quyền được tiếp tục sử dụng toàn
bộ đất đó sau khi đã thoả thuận
với bên kia; nếu không thoả thuận được thì
bên sử dụng đất phải thanh toán cho bên kia
phần giá trị quyền sử dụng đất mà bên
đó được hưởng theo mức do hai bên
thoả thuận; nếu không thoả thuận
được, thì yêu cầu Toà án giải quyết. Trong
trường hợp một bên có nhu cầu và có
điều kiện trực tiếp sử dụng
đất nhưng không thể thanh toán cho bên kia phần giá
trị quyền sử dụng đất mà bên đó
được hưởng, thì bên kia có quyền chuyển
nhượng phần quyền sử dụng đất
của mình cho người thứ ba, trừ trường
hợp các bên có thoả thuận khác.
2. Việc chia quyền sử
dụng đối với đất nông nghiệp
để trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp
để trồng rừng, đất ở
được Nhà nước giao, đất chuyên dùng là
tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
được thực hiện theo quy định tại
Điều 95 của Luật Hôn nhân và gia đình.
Điều 25. Chia quyền sử dụng đất mà vợ,
chồng được Nhà nước cho thuê
Sau khi kết hôn, quyền sử
dụng đất mà cả vợ và chồng hoặc
chỉ một bên vợ hoặc chồng được
Nhà nước cho thuê là tài sản chung của vợ
chồng; khi ly hôn, việc chia quyền sử dụng
đất đó được thực hiện như sau:
1. Trong trường hợp vợ
chồng đã trả tiền thuê đất hàng năm mà
khi ly hôn, nếu cả hai bên đều có nhu cầu và có
điều kiện trực tiếp sử dụng
đất đó, thì việc chia quyền sử dụng
đất được thực hiện theo quy
định tại Điều 95 của Luật Hôn nhân và
gia đình; các bên phải ký lại hợp đồng thuê
đất với cơ quan nhà nước có thẩm
quyền.
2. Trong trường hợp vợ
chồng đã trả tiền thuê đất hàng năm mà
khi ly hôn, nếu chỉ một bên có nhu cầu và có
điều kiện trực tiếp sử dụng
đất, thì bên đó được tiếp tục
sử dụng và phải ký lại hợp đồng thuê
đất với cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, nếu hợp đồng thuê đất
trước đây do bên kia hoặc cả hai người
đứng tên; nếu các bên đã đầu tư vào tài
sản có trên đất, thì phải thanh toán cho bên kia
một phần giá trị tài sản đã đầu tư
trên đất mà người đó được hưởng
vào thời điểm chia tài sản khi ly hôn, căn cứ
vào tài sản và công sức đầu tư của bên kia,
trừ trường hợp có thoả thuận khác.
3. Trong trường hợp vợ,
chồng đã trả tiền thuê đất cho cả
thời gian thuê, thì khi ly hôn, các bên thoả thuận về
việc sử dụng đất đó và thanh toán cho nhau
phần tiền thuê đất đã nộp trong thời
gian thuê đất còn lại.
Trong trường hợp một
bên được tiếp tục sử dụng toàn bộ
diện tích đất, thì phải thanh toán cho bên kia một
nửa số tiền thuê đất tương ứng
với thời gian thuê đất còn lại, kể từ
thời điểm chia tài sản khi ly hôn, trừ
trường hợp có thoả thuận khác. Nếu các bên
đã đầu tư vào tài sản có trên đất, thì
bên tiếp tục thuê đất phải thanh toán cho bên kia
một phần giá trị tài sản đã đầu tư
trên đất vào thời điểm chia tài sản khi ly
hôn, căn cứ vào tài sản và công sức đầu
tư của bên kia, trừ trường hợp các bên có
thoả thuận khác.
Điều 26. Chia quyền
sử dụng đất của vợ chồng
được chuyển đổi, chuyển
nhượng, thừa kế chung, nhận thế chấp
1. Khi ly hôn, việc chia quyền
sử dụng đất do vợ chồng được
chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa
kế chung được thực hiện theo quy
định tại Điều 95 của Luật Hôn nhân và
gia đình.
2. Trong trường hợp vợ
chồng nhận thế chấp quyền sử dụng
đất của người thứ ba thì khi ly hôn,
quyền nhận thế chấp đất cũng
thuộc khối tài sản chung của vợ chồng và
được chia theo quy định tại Điều 95
của Luật Hôn nhân và gia đình.
Điều 27. Chia quyền sử dụng đất của
vợ chồng được giao chung với hộ gia
đình
Trong trường hợp cả
vợ và chồng có quyền sử dụng đất nông
nghiệp để trồng cây hàng năm, nuôi trồng
thuỷ sản, làm muối, đất lâm nghiệp
được giao chung với hộ gia đình sau khi
kết hôn, thì khi ly hôn, phần quyền sử dụng
đất của vợ hoặc chồng và của con không
tiếp tục sống chung với hộ gia đình
được tách ra và chia theo quy định tại
điểm a khoản 2 Điều 97 của Luật Hôn
nhân và gia đình.
Điều 28. Giải quyết quyền lợi của vợ
chồng khi ly hôn đối với nhà ở thuê của Nhà
nước
Việc giải quyết quyền
lợi của vợ chồng khi ly hôn đối với
nhà ở do vợ hoặc chồng hoặc cả vợ và
chồng được thuê của Nhà nước
trước hoặc sau khi kết hôn, được
thực hiện theo quy định sau đây:
1. Trong trường hợp hợp
đồng thuê nhà ở vẫn còn thời hạn, thì các
bên thoả thuận về việc tiếp tục thuê nhà
ở đó; nếu các bên không thoả thuận
được và cả hai bên đều có nhu cầu
sử dụng, thì được Toà án giải quyết
theo quy định tại Điều 95 của Luật Hôn
nhân và gia đình.
Trong trường hợp vợ
chồng đã nâng cấp, sửa chữa, cải tạo
nhà thuê của Nhà nước hoặc xây dựng mới trên
diện tích có nhà thuê của Nhà nước, thì khi ly hôn,
việc chia quyền sử dụng nhà ở và phần
diện tích nâng cấp, sửa chữa, cải tạo, xây
dựng mới do các bên thoả thuận; nếu không
thoả thuận được, thì được Toà án
giải quyết theo quy định tại Điều 95
của Luật Hôn nhân và gia đình. Nếu chỉ một
bên có nhu cầu sử dụng, thì bên sử dụng
phải thanh toán cho bên kia phần giá trị quyền thuê nhà
của Nhà nước và một phần giá trị nhà đã
nâng cấp, cải tạo, sửa chữa, xây dựng
mới mà bên đó được hưởng vào thời
điểm chia tài sản khi ly hôn.
2. Trong trường hợp vợ
chồng đã được Nhà nước chuyển
quyền sở hữu đối với nhà ở đó,
thì việc chia nhà khi ly hôn được thực hiện
theo quy định tại Điều 95 của Luật Hôn
nhân và gia đình.
Điều 29. Giải quyết quyền lợi của vợ
chồng khi ly hôn đối với nhà ở thuê của
tư nhân
Trong trường hợp vợ
chồng thuê nhà ở của tư nhân, thì việc phân chia
quyền sử dụng nhà ở đó phải bảo
đảm quyền lợi của chủ sở hữu nhà
và tuân theo quy định sau đây:
1. Trong trường hợp
thời hạn thuê đang còn, thì các bên thoả thuận
với nhau về phần diện tích mà mỗi bên
được thuê và làm lại hợp đồng với
chủ sở hữu nhà.
2. Trong trường hợp
thời hạn thuê đang còn mà chủ sở hữu nhà chỉ
đồng ý cho một bên được tiếp tục
thuê nhà, thì các bên thoả thuận về việc một bên
được tiếp tục thuê.
3. Trong trường hợp nhà
ở thuê đã nâng cấp, sửa chữa cải tạo,
xây dựng thêm diện tích gắn liền với nhà thuê và
được sự đồng ý của chủ sở
hữu nhà, thì bên tiếp tục ở phải thanh toán cho
bên kia phần giá trị nhà đã nâng cấp, sửa
chữa, cải tạo, xây dựng thêm mà bên đó
được hưởng vào thời điểm chia tài
sản khi ly hôn.
4. Trong trường hợp xây
dựng thêm diện tích nhà độc lập với
diện tích thuê và được sự đồng ý
của chủ nhà, các bên đã thanh toán tiền sử
dụng đất cho chủ nhà, thì việc chia nhà ở
đó thực hiện theo quy định tại
Điều 95 của Luật Hôn nhân và gia đình.
Điều 30. Giải
quyết quyền lợi của vợ chồng khi ly hôn
đối với nhà ở thuộc sở hữu riêng
của một bên
1. Trong trường hợp nhà
ở thuộc sở hữu riêng của một bên vợ
hoặc chồng đã đưa vào sử dụng chung, thì
khi ly hôn, nhà ở đó vẫn thuộc sở hữu riêng
của chủ sở hữu nhà, trừ trường
hợp các bên có thoả thuận khác. Bên vợ hoặc
chồng sở hữu nhà có nghĩa vụ hỗ trợ cho
bên kia tìm chỗ ở mới, nếu bên kia có khó khăn và
không thể tự tìm được chỗ ở mới.
Bên chưa có chỗ ở được lưu cư trong
thời hạn 6 tháng để tìm chỗ ở khác.
2. Trong trường hợp nhà
ở đó đã được xây dựng mới, nâng
cấp, sửa chữa, cải tạo, thì chủ sở
hữu nhà phải thanh toán cho bên kia phần giá trị nhà
đã xây dựng mới, nâng cấp, sửa chữa,
cải tạo mà bên đó được hưởng vào
thời điểm chia tài sản khi ly hôn.
Chương 6:
ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH
Điều 31. Hướng dẫn thi hành
Các Bộ, cơ quan hữu quan
trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của mình có trách nhiệm hướng dẫn thi
hành Nghị định này.
Điều 32. Hiệu lực thi hành
Nghị định này có hiệu
lực kể từ ngày 18 tháng 10 năm 2001.
Điều 33. Trách nhiệm thi hành
Các Bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng
cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương chịu trách nhiệm thi hành Nghị định
này.
|
Phan Văn Khải (Đã ký) |